Thursday, April 19, 2018

DU TỬ LÊ: THÊM MỘT 'ĐỨA CON HOANG ĐÃ TÌM VỀ NHÀ"

Nối gót Phạm Duy, Khánh Ly và nhiều văn nghệ sĩ khác, nhà thơ Du Tử Lê đã trở về Việt Nam, đi Hà Nội, ra mắt sách, ngồi chiếu dưới với những người thuộc "bên thắng cuộc".
Có còn không một Du Tử Lê của thời "Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển"?


khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi, sao trở lại quê nhà

khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển là quê hương tôi đó
rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì

khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi
cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối
biết đâu chừng xác tôi chẳng đến nơi

khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi
những năm trước bao người ngon miệng cá
thì sá gì thêm một xác cong queo

khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
cho tôi về gặp lại các con tôi
cho tôi về nhìn thấy lệ chúng rơi
từ những mắt đã buồn hơn bóng tối

khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và trên đường hãy nhớ hát quốc ca
ôi lâu quá không còn ai hát nữa
(bài hát giờ cũng như một hồn ma)

khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận huyệt với linh hồn.


Bài thơ, là của Du Tử Lê hồi đó.. Du Tử Lê bây giờ, khi chết xin người đừng mang xác ông ra biển. Chở xác một người con thoái hóa, biển sẽ trào lên những đợt sóng gào thịnh nộ . Ông cũng không phải lo xác khó tan rã trong đất lạ. Chiếc lá Du Tử Lê đã rụng về "cội", sẽ mục rã trong lòng đất mẹ xót xa khi nghe tin con đã đầu hàng, bỏ cuộc. "Đứa con lạc lối" đã tìm về nhà. Một cái gì đó trong phút cuối đời đã làm ông khuất phục.

Có còn không một Du Tử Lê của thời "đêm, nhớ trăng Sài gòn"?
(gửi Trần Cao Lĩnh)

đêm về theo vết xe lăn
tôi trăng viễn xứ hồn thanh niên vàng
tìm tôi đèn thắp hai hàng
lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây
ngỡ hồn tu xứ mưa bay
tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa

đêm về theo bánh xe qua
nhớ tôi Xa Lộ nhớ nhà Hàng Xanh
nhớ em kim chỉ khíu tình
trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre
nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè
nắng Trương Minh Giảng lá hè Tự Do
nhớ nghĩa trang quê bạn bè
nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường

đêm về theo vết xe lăn
tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào ?


1978
Bài thơ, của một Du Tử Lê thời "thanh niên vàng". Gần 40 năm sau, chất vàng của người thanh niên đã mờ nhạt. Có thể nó đang đỏ dần, đỏ dần. Hàng ngũ văn nghệ sĩ lưu vong chống cộng ngậm ngùi khi thấy thêm một chiến hữu mềm lòng, ngã quỵ.

Từ nay, tên du tử không còn phải lo đời lưu vong không cả một ngôi mồ nũa. Tên du tử năm xưa đã quỳ xuống van xin bọn người vẫn còn thù hằn với quá khứ của chính hắn để được trở về, nếu nằm xuống tại Việt Nam, sẽ được chế độ ban cho chút ơn. Sẽ có một nấm mồ hẳn hòi.

Dưới đây là những gì truyền thông tại Việt Nam đã viết về chuyến hồi hương của Du Tử Lê.

"Tối 3-6-2014, tai Gallery 39 Lý Quốc Sư, Hà Nội, nhà thơ Du Tử Lê có buổi gặp gỡ các bạn thơ và bạn đọc. Rất đông các bạn trẻ và các nhà thơ đến dự. Nhà thơ Bằng Việt, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Thụy Kha, Trần Nhương, Trần Quang Quý, Trung Trung Đỉnh...đã có mặt. Du Tử Lê giới thiệu tập thơ "Giỏ hoa thời mới lớn", một tập thơ dày dặn với trình bày bắt mắt của họa sĩ Lê Thiết Cương. Nhà thơ Bằng Việt, Thụy Kha, Nguyễn Quang Thiều phát biểu chào mừng Du Tử Lê đã trở về Hà Nội. Con đường dù rất dài rồi cũng đưa người con lạc lối trở về quê Mẹ.

ĐÔI NÉT VỀ DU TỬ LÊ
Sau Hiệp định Genève, 1954, vì nghe lời dụ dỗ của Mỹ Ngụy, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An, sau cùng là Cao học Đại học Văn Khoa.
Là môt thiên tài, ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai.
Du Tử Lê từng mang quân hàm Trung Tá, thuộc Quân ngụy Saigon, cựu phóng viên chiến trường, thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân Ngụy), và là giáo sư Văn học của nhiều trường trung học Sài Gòn.

MỘT BÀI THƠ CỦA DU TỬ LÊ,
(viết về 30 tháng Tư/ 1975)

ai nhớ ngàn năm một nỗi mừng

Tháng tư đã đến rừng chưa thức
Mưa vẫn chờ tôi ở cuối đường
Có môi, không nói lời ly biệt
Và mắt chưa buồn như mộ bia

Tháng tư nao nức chiều quên tắt
Chim bảo cây cành hãy lắng nghe
Bước chân giải phóng từng khu phố
Và tiếng chân người như suối reo

Tháng tư khao khát, ngày vô tận
Tôi với người riêng một góc trời
Làm sao ngưòi biết trời đang sáng
Và cánh chim nào sẽ bỏ tôi

Tháng tư sum họp người đâu biết
Cảnh tượng hồn tôi: một bóng cờ
Với bao chiêng, trống, bao cờ xí
Tôi đón anh về tự mỗi nơi

Tháng tư binh mã về ngang phố
Đôi mắt nhìn theo một nỗi mừng
Đêm ai tóc phủ mềm da lụa
Tôi với người chung một bóng cờ

Tháng tư nắng ngọt hoa công chúa
Riêng đoá hoàng lan trong mắt tôi
Làm sao anh biết khi xa bạn
Tôi cũng như người: Một nỗi vui

Tháng tư chăn gối nồng son, phấn
Đêm với ngày trong một tấm gương
Thịt, xương đã trả hờn sông, núi
Tôi với người, ai mang vết thương?

Tháng tư rồi sẽ ngàn năm nhớ
Rừng sẽ vì tôi nức nở hoài
Mắt ai ngu sẽ như bia mộ
Ngựa có về qua cũng thiếu đôi

Tháng tư nhắc nhở ngàn năm nữa!
Cảnh tượng hồn tôi những miếu đền
Trống, chiêng, cờ, xí như cơn mộng
Mưa đã chờ tôị Mưa...đã ...mưa

Mai kia sống với vầng sao ấy
người có còn thương một bóng ai
Góc phố còn treo ngời lãnh tụ
Ai nhớ ngàn năm một bóng ai?"


Có thật Du Tử Lê đã viết bài thơ nói về 30 tháng 4 năm 1975, "ai nhớ ngàn năm một nỗi mừng" không? (*) Nếu bài thơ này thực sự là đứa con chữ nghĩa của ông thì những gì Du Tử Lê viết trên đường tỵ nạn có lẽ đã là những quái thai sinh ra trong cơn hoảng loạn, như Phạm Duy đã từng nói về các nhạc phẩm chống cộng của ông ta?

Trở lại với bản tin nói về cuộc về của Du Tử Lê.
Như để khoe khoang đảng đã chiêu dụ được một nhân vật từng là sĩ quan cao cấp của chế độ cũ, tên bồi bút nào đó đã thăng 2, 3 cấp cho Du Tử Lê, cho ông ta mang "quân hàm" "Trung Tá". Nên nhớ QLVNCH không dùng chữ "quân hàm", và cho đến năm 1975 Du Tử Lê vẫn còn mang cấp Uý. Trước những câu người khác nói về cá nhân mình như " Sau Hiệp định Genève, 1954, vì nghe lời dụ dỗ của Mỹ Ngụy, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình...", "thuộc Quân ngụy Saigon", "thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân Ngụy)", chẳng hay nhà thơ từng một thời mang căn cước tỵ nạn cộng sản có nghĩ gì không? Hay ông sẽ vui vẻ chấp nhận để buổi cuối đời được chết trong vòng tay "từ ái" của đảng? Cuộc về của Du Tử Lê đã cho người bên kia sảng khoái, đắc thắng thốt lên rằng "Con đường dù rất dài rồi cũng đưa người con lạc lối trở về quê Mẹ".

Đường đường là một tên tuổi lớn trên văn đàn tỵ nạn, nhà thơ nghĩ sao khi nghe người ta nói về mình như thế? Còn lời nào đau xót hơn "người con lạc lối trở về"? 

Nhà thơ đã không có lời nào. Có lẽ ông mặc nhiên chấp nhận trong gần 40 năm qua ông đã lầm đường cho nên bây giờ ông đã bỏ con đường đó để theo một con đường khác, tự xa rời hàng ngũ những văn nghệ sĩ chống cộng, quay lưng lại với độc giả vẫn hằng yêu mến thơ văn ông. Từ nay, những gì ông viết sẽ không còn có ích lợi gì cho cuộc chiến đấu chống cộng. Những ai được ông ca tụng, giới thiệu, phải nên đề phòng. Con ma cà rồng cộng sản sau khi hút máu nạn nhân nào sẽ biến nạn nhân đó trở thành tay sai cho chúng. 
Từ nay, với tôi, Du Tử Lê đã không còn nữa. 

VĐT
(*) Chú thích của người viết:

Du Tử Lê có bài “ai nhớ ngàn năm một ngón tay” rất giống với bài thơ trên. 

Có lẽ ai đó đã sửa lời bài thơ này và đặt cho nó cái tên “Ai nhớ ngàn năm một nỗi mừng”.

Đọc lại bài thơ, người ta có thể thấy những câu chắp vá, lời thơ trúc trắc, vần gieo sai một cách rất đáng nghi. 

Nếu không phải chính Du Tử Lê đã sửa thơ ông (phù thuỷ chữ nghĩa đâu cần phải sửa, ông thừa sức viết cả trăm bài ca tụng việt cộng, nếu muốn!) thì có thể Việt cộng đã dùng hạ chiêu để lôi hẳn Du Tử Lê về phía họ. Cũng có thể người nào đó với ác ý đã làm như thế để bôi nhọ Du Tử Lê.

Dẫu thế nào đi nữa, hành động khuất phục trước kẻ thù của DTL đã xóa trong tôi hình ảnh đẹp của một nhà thơ tôi từng yêu thích. Và như vậy, từ nay, với tôi, Du Tử Lê dã không còn nữa.

ai nhớ ngàn năm một ngón tay

Tháng tư tôi đến rừng chưa thức 
Mưa vẫn chờ tôi ở cuối khuya 
Có môi chưa nói lời chia biệt 
Và mắt chưa buồn như mộ bia 

Tháng tư nao nức chiều quên tắt 
Chim bảo cây cành hãy lắng nghe 
Bước chân ai dưới tàng phong ốm 
Mà tiếng giày rơi như suối reo 

Tháng tư khao khát, đêm, vô tận 
Tôi với người riêng một góc trời 
Làm sao anh biết trăng không lạnh 
Và cánh chim nào sẽ bỏ tôi 

Tháng tư hư ảo người đâu biết 
Cảnh tượng hồn tôi : một khán đài 
Với bao chiêng, trống, bao cờ xí 
Tôi đón anh về tự biển khơi 

Tháng tư xe ngựa về ngang phố 
Đôi mắt nào treo mỗi góc đường 
Đêm ai tóc phủ mềm da lụa 
Tôi với người chung một bến sông 

Tháng tư nắng ngọt hoa công chúa 
Riêng đoá hoàng lan trong mắt tôi 
Làm sao anh biết khi xa bạn 
Tôi cũng như chiều : tôi mồ côi 

Tháng tư chăn gối nồng son, phấn 
Đêm với ngày trong một tấm gương 
Thịt, xương đã trộn, như sông, núi 
Tôi với người, ai mang vết thương ? 

Tháng tư rồi sẽ không ai nhớ 
Rừng sẽ vì tôi nức nở hoài 
Mắt ai rồi sẽ như bia mộ 
Ngựa có về qua cũng thiếu đôi 

Tháng tư người nhắc làm chi nữa 
Cảnh tượng hồn tôi đã miếu thờ 
Trống, chiêng, cờ, xí như cơn mộng 
Mưa đã chờ tôị Mưa...đã ....mưa 

Mai kia sống với vầng trăng ấy 
người có còn thương một bóng cây 
Góc phố còn treo đôi mắt bão 
Ai nhớ ngàn năm một ngón tay ?

Du Tử Lê
 
ĐÔI DÒNG GHI LẠI VỀ THI SĨ DU TỬ LÊ 
Bà Phan Lạc Giang Đông ghi

Kính thưa Qúy vị ,

Gần đây... đọc một số bài Thi Sĩ DU TỬ LÊ viết. Tôi cũng xin ghi nhận ít dòng Về Thi Sĩ Du Tử Lê. Ghi nhận khi Ông còn sống... để nếu có gìsai thì Ông cho tôi hay để tôi còn kịp đính chính và xin lỗi.

Thưa....
Vào một buổi sáng sớm Sài Gòn, mưa rả rích...! Tôi không nhớ rõ ngày tháng năm. Nhưng năm đó là năm Thi Sĩ Du Tử Lê ra mắt tập Thơ TAY GÕ CỬA ĐỜI.

Nghe tiếng gõ cửa, tôi ra mở xem ai thì... - một người đàn ông mặc quân phục - Hoa mai vàng đeo trên vai áo .. Dáng gầy gầy , nhỏ con . Ông đậu cái xe vespas ở sân. Ông rất lịch sự yểu điệu nữa là khác, ông tự giới thiệu:

"Thưa chị! Tôi là Du Tử Lê...- chắc chị có nghe tên ? ! "
Tôi vội vàng thưa : 
"Dạ thưa anh, hân hạnh được gặp anh - gặp một Đại Thi Sĩ! - Thưa anh, nhà tôi đi vắng! " 

Du Tử Lê : 
"Phan Lạc Giang Đông - anh ấy về ngay bây giờ - anh đi cùng tôi về đây nhưng còn rẽ vào mua cái gì ở quán đầu ngõ - Anh về ngay bây giờ".

Rồi Du Tử Lê tiếp: 
"Quả thực Giang Đông từ trại về qua tôi luôn nên tôi phải dạy sớm chưa kịp rửa mặt. Xin chị một thau nước ấm! Tôi cần đứng ngoài ngắm trời đẹp và đợi Giang Đông!" ..

Tôi quay vào lấy ngay cho Du Tử Lê một thau nước có pha ngay một bình thủy bự nước nóng.... Tôi để trên cái giá để Du Tử Lê rửa mặt - ngay tại gốc cây hoa đại. Thật đẹp.

Chờ Du Tử Lê rửa xong tôi sẽ dẹp ngay để còn Giang Đông có về đòi rửa mặt thì có thau! Nhưng Du Tử Lê, bê thau xuống đầu hè ngồi có vẻ trầm ngâm, hai tay vẫn thả trong chậu nước ấm mà chưa chịu vắt khô khăn rửa mặt. Tôi mở rộng cửa... thì Du Tử Lê mới sực tỉnh nói: 

"Xin lỗi chị tôi làm mất thì giờ chị vì tôi đang tìm một Từ Ngữ thích hợp cho một câu thơ trong bài thơ tôi mới làm!".

Rồi Phan Lạc Giang Đông về tới.. Xe của Giang Đông máy nổ như sấm vì cái xe gắn máy cũ ấy mà. Giang Đông gặp Du Tử Lê khen ngay : 

"Nè! Du Tử Lê giàu thế? - Cậu đi xe Vespas... mới - Nhất cậu đấy ".

Du Tử Lê: 
"Xe này chị Tuệ mua đấy mà.. Khi chị Tuệ đi đâu thì mình chở dùm chị. Còn bình thường thì mình tự do xử dụng!"

Giang Đông:
"Chị Tuệ Mai - con gái của Cụ Trần Tuấn Khải... giúp cậu là hách lắm rồi- tiếng tăm sẽ bay vèo vèo".

Du Tử Lê và Giang Đông vào nhà ngồi uống cà phê. Hai chàng bàn tính chuyện này chuyện kia.

Du Tử Lê: 
- Mình sẽ ra mắt tập thơ TAY GÕ CỬA ĐỜI nay mai. Nhưng mình mời khoảng độ Hai Chục ANH EM VĂN NGHỆ SĨ thôi. Cũng không có tiền nhiều nên chỉ nấu Xôi Vò Chè Đường và Bánh Ngọt, cà phê. Mình thấy có thể nhờ chị đây nấu dùm mình được không.

Du Tử Lê quay qua tôi: "Chị giúp Du Tử Lê ?!"
Tôi ngần ngại trả lời: 

- "Thưa anh! Con nhỏ mà người giúp việc mới ra - Tôi đi dạy học nữa nên rất tiếc không giúp anh được!".

Du Tư Lê bàn qua chuyện nữa là chuyện Cưới Cô Châu... 

Du Tử Lê: 
- "Cái khó là Mượn Ai đứng Chủ hôn? 

Tôi bỗng hỏi thực thà: 

- "Uả nghe anh có vợ hai con rồi mà sao lại cưới cô Châu nào nữa?!" 

Nhà tôi, biết tính tôi GHEN Dàn Trời nên nghe chuyện này có vẻ tôi không đồng tình lắm. Nên hối Du Tử Lê uống nốt tách cà phê và đi cho lẹ.

Vừa đứng lên thì một Ông Thi Sĩ nữa tới - Ông cũng mặc đồ Quân Nhân... Đeo ba hoa mai vàng lận. Tôi nhớ (Ba hoa mai?!) Ông vừa dựng xe tính vào nhà tôi thì Giang Đông và Du Tử Lê bước ra cửa ngay. Giang Đông :

- "A! Mai Trung Tĩnh - Thôi mình đi chỗ khác bàn tiếp - Rồi mình còn ra nhà in coi báo lên khuôn !"

Sau đó ít ngày thì Giang Đông mang về tập thơ TAY GÕ CỬA ĐỜI - đề tặng của tác gia: DU TỬ LÊ .

Tôi cầm đọc và trân qúy như mình hân hạnh được biết một Đại Thi Sĩ vậy! Rồi Giang Đông kể là: Hắn (Du Tử Lê - gọi tính cách thân tình) đang tính cưới cô Châu - Cô này xinh đẹp - con nhà gia giáo, giàu có. Hắn mê lắm mà kẹt nỗi Hắn có vợ hai con rồi! Bây giờ không biết nhờ ai làm Cha Mẹ Gỉa hoặc Anh Chị Gỉa để Đứng Ra Xin Cưới cô Châu! 

Tôi nghe mà bật ngửa vì Thần Tượng Đại Thi Sĩ đã Bê Bối! Tôi bảo Giang Đông:

"Anh dính vào chuyện này làm gì!" 
Giang Đông:

"Anh không dính nhưng VĂN NGHỆ Là vậy - Thi Sĩ mà Em... Có vậy làm thơ tình mới hay!" 

Bữa cơm hôm đó tôi ăn không ngon vì tôi nghĩ: "Bệnh Du Tử Lê sẽ lây qua Giang Đông mất! Giang Đông sẽ bắt chước!".

- RỒI...
Sau mãi đến năm 1995....- Khi Giang Đông đi sang Mỹ theo diện H.O. Tất nhiên vợ là tôi sẽ lòng thòng đi cùng chứ. Đúng vậy! Tôi đã theo Giang Đông đi Mỹ và định cư tại Seattle - 

Giang Đông khoái làm báo lắm nên khi đến Seattle là vào ngay tờ báo Phương Đông Times - để Xả Hơi trên báo chí . Viết không có một xu teng cũng thức toét mắt mà viết! Độc giả khen chê. Rồi đấm đá tha hồ! 

Rồi lại chính anh chủ báo này nhờ Giang Đông:
"Anh Giang Đông! Du Tử Lê sẽ lên đây ra mắt sách... Tụi em nhờ anh giới thiệu. Anh mới qua thì dứt khoát sẽ đông người tới. Nhất là GiangĐông là bạn cũ của Du Tử Lê từ Sài Gòn nữa!" 

Tôi như cái đuôi của Giang Đông cũng theo đi dự buổi ra mắt sách này. Anh chàng chủ báo bảo tôi: 

- "Cái khó cho tụi tôi là phải đài thọ tiền máy bay cho Du Tử Lê và Bà Vợ - một cô lấy từ CANADA sang (Tôi còn hình cô ta chụp hôm đó)!".

Cô ta độc thân gần ba chục tuổi - không đẹp - không có duyên! Trung bình! Tôi nhìn cô và bảo nhỏ ông chủ báo và Du Tử Lê: 

"Bà này đâu có đẹp đâu mà Du Tử Lê đổi vợ?!" 
Du Tử Lê: 

- "Trông cũng được nhưng mà mình cuối đời rồi cần ổn định cuộc sống - Du Tử Lê mệt mỏi lắm chị ạ!"

Rồi buổi ra mắt sách đã bắt đầu tại một nhà hàng ở Seattle - Ôi hình ảnh nhiều quá chụp cho lắm vào nay tôi còn giữ cho ông chồng đã Ra Đi Vĩnh Viễn! 

Quyển sách ra mắt có tựa đề:
CHỖ MỘT ĐỜI 
EM VẪN ĐỂ DÀNH 
Tùy Bút 
DU TƯ LÊ 

(Tủ sách Văn Học Nhân Chứng)
* Sách Tặng Phan Lạc Giang Đông - (tôi đang để cạnh đây).

Sau khi "Gáy" cho Du Tử Lê ra mắt sách rồi thì... Chia tay nhau, vợ chồng tôi lo đi cày để có tiền sinh sống và nuôi con cháu! 

Đùng một cái, ít lâu sau tôi còn đang ở trong một căn hộ Public Housing thì Giang Đông lại bảo tôi: 

- "Em, hôm nay em nấu bún riêu nha. Anh sẽ có bà Châu, chủ báo sài Gòn Nhỏ lên đây. Bà ấy mời anh làm đại diện cho báo bà ấy ở Seattle - Nhưng anh ngại cộng tác với PHỤ NỮ - Phụ Nữ làm Xếp nắm đầu mình?! Vả lại anh còn đi làm không có thì giờ đi lấy quảng cáo, viết tin nữa...- Nên anh để cho Cao Xuân Hùng nhận việc này! - Vậy là có cả bà Châu và Cao xuân Hùng sẽ đến đây vào chiều mai".

Tôi nói:
"Ra quán ăn đi , em nấu bún riêu dở lắm - Nhất là bà Châu - dân sang khó tính đấy!".

Nhưng ông xã tôi không đồng ý đi tiệm, Giang Đông bảo:

- "Em! Con cái, bà con, anh em đang nghèo đói ở Việt Nam kìa!"

... Rồi
Tôi đã gặp Bà Chủ báo Sài Gòn Nhỏ - và Cao Xuân Hùng tại căn hộ Public Housing mà vợ chồng tôi đang ở.

Bà Châu : Dáng nhỏ nhắn như tôi, nước da ngăm ngăm. Rất Có Duyên. Nói cười liên tục và kể chuyện về Du Tử Lê cùng Cuộc Đời làm Báo của Bà. Bà kể:

- "Khi Cộng Sản đánh chiếm Sài Gòn vào ngày 30 tháng Tư - 1975 - thì Du Tử Lê một mình đã Bay mất ! Tôi ở lại một mình với hai đứa con nhỏ . Tôi ở với cha mẹ tôi . Vì ba má tôi có Quốc Tịch Pháp nên chờ đi Pháp chứ không đi vượt biên - Khi toà Đại Sứ Pháp phải dọn về thì ba má tôi và mẹ con tôi đi Pháp . Khi sang Pháp ở được ít lâu thì tôi nhận được thư ông Du Tử Lê viết THA THIẾT mong tôi và Hai Con qua Mỹ ởcho có vợ có chồng , con cái đoàn tụ với anh - anh nhớ hai con và em lắm lắm . Tôi đọc thư riết nên đã quyết định đem hai con sang Mỹ . Khiđến Mỹ thì tôi về nhà Du Tử Lê - căn hộ hẹp ! Và Du Tử Lê đi làm . Cứ sáng đi tối về . Mỗi khi về tới nhà thấy Du Tử Lê mệt mỏi và tay chân , quần áo lốc thốc dơ dáy ! Mà tiền anh ấy cho đi chợ chả đủ . Nhìn chồng như vậy tôi mới hỏi : Anh à , anh làm nghề gì mà thấy có vẻ vất vả quámà tiền thì không có bao nhiêu . Nhưng Du Tử Lê không nói hiện đang làm gì ! Rồi Du Tử Lê không về nhà như mọi ngày sáng đi chiều về nữa mà một tuần mới về một lần ! Tôi mới thấy thế nào ấy nên đi ra ngoài khu Việt Nam thăm hỏi bạn bè anh ấy coi sao . Tôi được bạn anh Du TửLê cho hay là Du Tử Lê đang có Một Vợ Hai Con ! - Tôi đành chờ Du Tử Lê về và cũng nói thật là bạn anh cho hay như vậy . Tôi cũng nhỏ nhẹnói với Du Tử Lê : Anh à - Anh có vợ và hai con rồi sao còn cứ viết thư bảo em cho hai con qua đây ? ! Bây giờ thì đành chia tay nhau để em lo tương lai cho hai con . Em nói thật chứ ngồi đây mà chết đói sao . 

Du Tử Lê suy nghĩ và quyết định : Nếu em bỏ anh thì em phải làm một cái giấy xác nhận là HAI ĐỨA CON KHÔNG PHẢI CON ANH .

Tôi đau khổ dến tái mặt vì nghĩ KHÔNG NGỜ DU TỬ LÊ ĐàTỒI ĐẾN NHƯ VẬY . Nhưng tôi chợt nhận ra rằng : DU TỬ LÊ Sợ NHẬN HAI ĐỨA CON thì Sẽ Phải CHIA TIỀN để Nuôi ! Tôi liền trả lời : Đây tôi viết ngay trước mặt anh . Khi đưa cho Du Tử Lê cái giấy cho CHÀNG YÊN TÂM là không Phải Chu Cấp cho hai con ! Tôi dẫn hai con tôi ra khỏi nhà , trong tay có đúng HAI ĐÔ LA . Tôi tìm đến một chỗ Bán Fast Food xin việc . ( Bà Châu còn nhấn Mạnh : Cao Xuân Hùng thấy hồi mới sang chị em mình khổ ? - Cao Xuân Hùng cũng làm nghề đó ) Cứ phải chạy theo xe đưa đồ ăn cho khách ! Có lúc muốn đứt ruột ! Nhưng thấy CUỘC ĐỜI THẤM THÍA và Ý VỊ .

Rồi đi học tiếng Anh - Con cái đi học ! - Một thời gian đi chợ thấy Báo Việt Ngữ ở chợ nhiều quá .. Tôi mới nghĩ ra : Mình Làm Báo như họ nè . Dễ chứ khó gì . Tôi đổi nghề quay ra làm nghề CHỦ BÁO và Viết ... - Không ngờ cái nghề này kiếm ăn được . Báo mình bán chạy hơn nhiều báo khác . Thế là bắt đầu họ ganh ghét . Họ chửi : " Nào là Hàng Dược Thảo nói phét - Làm gì có bằng Dược Sĩ ... ! " Thì tôi trả lời : Làm báo như mấy người , cần gì phải cái bằng Đại Học - mà khoe Dược Sĩ - Chỉ cần học hết lớp Năm thôi - Vì Báo Cắt Dán Không mà - Có viết đâu màcần học cho cao ! " .

Bà khoe tiếp : Tôi đã đứng lên được và bây giờ bên phía Mỹ họ quen cho hay là nếu Phát Hành mỗi lần trên 8 ngàn ( hay 10 ngàn ? ! ) số thìhọ giúp giảm tiền chuyên chở phát hành xuống còn 40 % thôi .. Tôi mừng quá nên cần nhiều đại diện ở các tiểu bang Mỹ . Con tôi các cháu đãlên đại học chúng chẳng cần sự giúp đỡ của tôi nhưng có một điều là Cái Tờ Giấy Bố chúng nó yêu cầu tôi xác nhận là Hai Đứa không phải làcon cuả Du Tử Lê ! !!!!!!!!!!!!!!!! " đã làm cho chúng nó bị va chạm tình cảm .

Bà tiếp : Tôi đã mua một biệt thự MỘT TRIỆU ĐÔ LA và Trồng Hoa Lan kiếm lời nữa .
- Cao Xuân Hùng đã nhận làm Đại Diện cho Báo Sài Gòn Nhỏ . Sau Hùng lại đi làm nghề khác ...

Từ đó đến nay Tôi không gặp lại Bà CHỦ BÁO SÀI GÒN NHỎ và cũng Không gặp Du Tử Lê !

Tôi viết lại không có tính cách vì ... Bới Móc mà GHI NHẬN và Chúc Mừng Bà Sài Gòn Nhỏ quá Tài Giỏi - giàu Sang Quá rồi .

Chuyện THI SĨ Lắm Vợ NHIỀU ĐÀO thì thiếu gì nhưng chuyện KHÔNG NHẬN CON MÌNH chỉ vì Sợ Chia Ít Đồng Nuôi Con thì thật Hiếm Quá!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!! !!!

***
Cuối cùng tôi cũng XIN LỖI THI SĨ DU TỬ LÊ và Bà HOÀNG DƯỢC THẢO (Chủ báo Sài Gòn Nhỏ) - nếu có gì sai Xin CHO ĐÍNH CHÍNH ngay..
Xin cám ơn Qúy Vị 
(Viết xong lúc 1: 44PM tại Seattle - ngày 3- 16- 2010)
THƯ KHANH (tức bà Phan Lạc Giang Đông)

Monday, April 2, 2018

Đại Tá Đinh Văn Đệ - NHỮNG KẺ ĂN CƠM QUỐC GIA THỜ MA CỘNG SẢN NGÀY ẤY, BAY GIỜ RA SAO?

 Đại Tá Đinh Văn Đệ

Một trong những lý do quốc gia Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ chính là đã có quá nhiều con Ong chui vào tay áo và một trong số đó là Đinh Văn Đệ nguyên Tỉnh Trưởng Tỉnh Bình Thuận.
Sinh năm 1924, vào năm 1963 Đệ đã là Trung Tá Thị Trưởng Đà Lạt rồi được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng Tuyên Đức.
Sau đảo chánh, hắn được thăng Đại Tá và thuyên chuyển về làm Tỉnh Trưởng Bình Thuận.
Chính trong thời gian này, Đệ lọt vào tầm ngắm của Việt Cộng và chúng cử tên Chín Mẫn (bí danh) tiếp cận, lôi kéo, dụ dỗ nhân vật mà theo bọn chúng là "có khả năng chui sâu, leo cao".
Năm 1969, lúc Đệ đã chấp nhận làm một điệp viên nằm vùng cho Việt Cộng thì hắn trúng cử Dân Biểu Hạ Nghị Viện và được bầu giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện (than ôi !)
Với chức vụ như thế, hắn có quyền đòi hỏi những Tướng lãnh và giới chức quân sự cung cấp những bí mật quân sự - quốc phòng, những kế hoạch chiến lược - chiến thuật cho hắn biết. Tất cả tin tức quan trọng được cung cấp, Đệ đều báo cho tên trùm tình báo Việt Cộng Cao Đăng Chiếm trong Cục R.
Vài "chiến công" của Đệ: Sau khi Tỉnh Phước Long thất thủ vào năm 1974, Việt Cộng muốn biết QL VNCH có điều động quân đội tái chiếm hay không. Tên Đệ đã dò hỏi nhiều người có trách nhiệm và đây là báo cáo của hắn: "Không có chuyện tái chiếm Phước Long vì QL VNCH không còn đủ quân để làm việc đó. Nhưng một Chuẩn Tướng đã cho tôi biết vài ngày nữa Không Quân sẽ dội bom Lộc Ninh". Từ nguồn tin của Đệ, Việt Cộng đã nhanh chân chạy ra khỏi nội thị Lộc Ninh, tránh được trận không kích sau đó 3 ngày.
Lúc miền Nam nguy ngập, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thành lập phái đoàn đi Hoa Kỳ vận động viện trợ và với cương vị đang nắm giữ, Đệ phải có tên trong danh sách phái đoàn.
Bề ngoài hắn tỏ vẻ sốt sắng vì công việc nhưng lại bí mật "than thở có dụng ý" với các quan chức Hoa Kỳ rằng quân đội đã sa sút tinh thần không muốn chiến đấu nữa, miền Nam không còn hy vọng cứu vãn!

Kết quả như ta đã biết, Hoa Kỳ từ chối nguồn quân viện, đưa VNCH vào tình thế không còn bất cứ tia hy vọng nào và đành ngậm ngùi buông súng trong Tháng Tư Đen...
ST FB

Bài viết của Trúc Giang
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ của Việt Nam Cộng Hoà, cái nhức nhối nhất là chỗ nào cũng có bọn VC nằm vùng, chúng tràn lan trong các tổ chức chính quyền, các cơ quan truyền thông, văn nghệ, tôn giáo, sinh viên học sinh…
Trong các tổ chức chính quyền, từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham Mưu, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, Tổng Nha Cảnh Sát, Quốc Hội, và ngay cả trong Dinh Độc Lập cũng có VC nằm vùng. Bọn nầy ẩn nấp dưới hàng trăm hàng ngàn bộ mặt, muôn hình vạn trạng, đánh phá miền Nam, từ công khai hợp pháp, đến bí mật dưới muôn ngàn hình thức. Độc hại nhất là bọn ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản.
Ngày nay, trong cuộc đấu tranh cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ của các cộng đồng tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại, cũng không tránh khỏi bọn nầy. Ở thế kỷ 21, kỹ thuật đánh phá tinh vi hơn, nhất là lợi dụng các thứ tự do, công khai và hợp pháp để đánh phá.
Phạm vi hoạt động của Việt Cộng
Thời nào cũng vậy, bài bản của phạm vi hoạt động cũng giống nhau. Đó ví như một vòng tròn có ba phần:
Phần trung tâm, là do cán bộ đảng viên thực hiện.
Phần thứ hai của vòng tròn, nối tiếp bên ngoài trung tâm, là những tổ chức được thành lập, do liên minh, liên kết, trong đó cán bộ đảng viên nắm phần lãnh đạo, chỉ huy, và đa số các thành phần quần chúng tham gia là không Cộng Sản. Đó là những “Mặt Trận”, như Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, Mặt Trận Tổ Quốc…
Phần ngoài cùng của vòng tròn, là những tổ chức quần chúng không cộng sản, nhưng thân cộng, bị VC len lỏi bên trong, giật dây, tác động. Đó là những “Phong Trào”, như:
Phong trào hoà bình (chống chiến tranh, phản chiến), Phong trào chống tham nhũng, Phong trào Nhân dân cứu đói, Phong trào bảo vệ phụ nữ, Phong trào bảo vệ văn hoá dân tộc, Phong trào đòi thi hành Hiệp định Paris, Lực lượng quốc gia tiến bộ, Thành phần thứ ba…
2* Những tên Việt Cộng nằm vùng
2.1. Nhà văn nhà báo Việt Cộng nằm vùng
Cuối năm 1957, dưới thời tỉnh trưởng Nguyễn Trân, một mẻ lưới của cảnh sát Định Tường tung ra, bắt giữ những ký giả đem về giam tại Mỷ Tho, gồm có những người nằm vùng trong những tờ báo như sau:
Triệu Công Minh (báo Tiếng Dội), Lương Ngọc (Trời Nam), Nam Thanh (Lẻ Sống), Đồng Văn Nam, Phương Ngọc, Phan Ba (Buổi Sáng), Nguyễn Bảo Hoá (Ánh Sáng), vợ Nguyễn Bảo Hoá là dược sĩ Mã Thị Chu (Tiếng Chuông), LS Nguyễn Văn Diệp, đạo diễn Lê Dân, Mai Thế Đông (giám đốc cải lương).
Nguyễn Trân tổ chức tranh luận công khai tại rạp hát Viễn Trường, Mỷ Tho, nếu nhận CNCS là sai và ăn năn hối cải thì được thả ra. Sau khi được thả, toàn bộ dông tuốt vô bưng, xem như Nguyễn Trân thả cọp về rừng.
2.2. Truy lùng Việt Cộng
Sau cuộc truy lùng trong các báo nêu trên, chính quyền bắt giam hàng loạt cán bộ nằm vùng cấp thành ủy, như GS Nguyễn Văn Chì, Lê Văn Chí, Trần Văn Hanh, Nguyễn Trường Cữu, Cổ Tấn Lương, Bùi Đức Thịnh, bà Bình Minh, đa số là giáo sư tư thục.
2.3. Việt Cộng nằm vùng, nhà văn Vũ Hạnh
Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Đức Dũng sinh năm 1926 tại Quảng Nam. Cán bộ văn hoá khu ủy Sài Gòn-Gia Định, hoạt động công khai đơn tuyến ở nội thành Sài Gòn.
Nhà văn Vũ Hạnh tại hội trường A trường Đại học An Giang đêm 17/03/2006.
Trước 1975, Vũ Hạnh bị bắt 5 lần, nhưng lần nào cũng có người bảo lãnh cho ra. Người bảo lãnh Vũ Hạnh sau cùng, là LM Thanh Lãng, Chủ tịch Hội Văn Bút.
Sau ngày 30-4-1975, Vũ Hạnh giữ chức Chủ tịch Hội Nhà Văn TP/SG. Vũ Hạnh mang súng kè kè bên hông, thì bị thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, nửa đùa nửa thật bảo: “Anh em văn nghệ sĩ chỉ quen càm bút chư có biết chơi súng đau”.
Nhưng mấy tháng sau, ông lắc đầu nói nhỏ “Totalement décu” (hoàn toàn bị lừa). Với chức vụ Chủ tịch Hội Nhà Văn, chẳng có quyền hành và quyền lợi gì, coi bộ đời sống thời bao cấp gặp nhiều khó khăn. Ít lâu sau, nghe nói có một nhà giàu cộng tác để Vũ Hạnh mở ra một gánh hát cải lương, nhưng sau đó dẹp tiệm. Vũ Hạnh lại tìm người có vốn mở xưởng làm xà bong, nhưng cũng không khá vì thiếu nguyên liệu.
Ít lâu sau nữa, một trong những người bạn cho biết, Vũ Hạnh đang tìm đường dây cho con vượt biên, nhưng bạn bè chả ai dám giúp đở vì sợ cái bản chất phản bội của tên nằm vùng.
2.4. Những tờ báo của Việt Cộng và có Việt Cộng nằm vùng
2.4.1. Tờ Tin Văn
Báo nhà nước đưa tin như sau:
“Đầu năm 1966, đảng ủy giao cho cán bộ Vũ Hạnh đang hoạt động trong “vùng bị tạm chiếm”, ngụy trang dưới chiêu bài “bảo vệ văn hoá”, xin phép cho ra tờ Tin Văn, chủ trương chống văn hoá đồi trụy, chống văn hoá ngoại lai đầu độc thanh niên.
Tờ báo được các cán bộ ta chỉ đạo, đứng đầu là đồng chí Trần Bạch Đằng, Ủy viên thường trực Thành Ủy SG-GĐ, lãnh đạo tuyên huấn, mặt trận, trí vận, Hoa vận, và thanh niên (bao gồm sinh viên và học sinh).
Chủ nhiệm tờ Tin Văn là Nguyễn Mạnh Lương. Một số nhà văn cộng tác như Lữ Phương, Hồng Cúc, Nguyễn Hữu Ba, Vũ Hạnh. Toà soạn đặt trong một ngôi chùa”.
Sau 1975, Vũ Hạnh viết như sau: “Tuần báo Tin Văn, với những bài phê bình vạch mặt những tên xung kích chống cách mạng, qua các tác phẩm đồi trụy, phản động, đã tạo ra một phong trào quần chúng sôi nổi. Ngụy quyền hoang mang nên tìm cách phản kích. Chúng trắng trợn cho tên Chu Tử, tay sai của Sở Công An và Phủ Đặc Ủy TW Tình Báo ngụy, bắt đầu một chiến dịch đả kích tôi, tố cáo tôi là “VC nằm vùng”, và liên tiếp trong nhiều số báo như vậy, y đã “vu khống tôi” cốt làm cho những người tham gia phong trào sợ hãi. Lúc đó, đảng ủy văn hoá và thường vụ khu ủy, động viên, chăm sóc và giúp đở tôi về vật chất lẫn tinh thần, thông qua vợ tôi. Mở đường dây liên lạc mới, tôi trực tiếp nhận sự chỉ đạo của đảng.” (Trích từ Vũ Hạnh: Trui rèn trong lửa đỏ, trang 179).
Tên VC láu cá nầy là “VC chính cống”, thật sự nằm vùng, mà nhảy lên như đỉa phải vôi, khi bị Chu Tử vạch mặt là “VC nằm vùng”, rồi lại nói là “bị vu khống”. Bọn nằm vùng luôn luôn có phản ứng như thế!
2.4.2. Hai tờ báo có Việt Cộng nằm vùng
1. Tờ Đại Dân Tộc
Chủ nhiệm: Võ Long Triều
Tổng thư ký: Hồ Ngọc Nhuận
VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (hoạ sĩ Ớt)
2. Tờ Điện Tín
Chủ bút Hồ Ngọc Nhuận
Chủ nhiệm: cựu đại tá, cựu nghị sĩ Hồng Sơn Đông
Chủ bút: Hồ Ngọc Nhuận
2 VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt)
2.4.3. Nói về tờ Tin Sáng

Báo Tin Sáng có 3 thời kỳ:
1. Tin Sáng cũ trước năm 1973
2. Tin Sáng lậu từ 1973 đến 1975
3. Tin Sáng bộ mới từ ngày 10-8-1975 đến 1-7-1981
Tin Sáng cũ trước 1973. Toà sọan ở số 124 đường Lê Lai, Q.1. do nhóm dân biểu đối lập, thân cộng và VC nằm vùng, như: Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung, Dương Văn Ba, có cán bộ VC nằm vùng nhưng giữ chức vụ khiêm tốn.
Trên tờ báo có 50 bài viết của LM Nguyễn Ngọc Lan, chửi Mỹ, chửi VNCH và chống chiến tranh. Tin Sáng là nơi kích động các cuộc biểu tình của nhóm SV/VC nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm. Tòa soạn bị đốt và có truyền đơn “Đồng bào quyết đập chết những tên VC nằm vùng Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận. Quần chúng rất phẩn nộ trước hành động đâm sau lưng chiến của dân biểu tay sai VC Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận”.
Tin Sáng sau 1975.
Trần Văn Giàu nhận xét: “Các anh làm báo CS hơn CS”. Alain Ruscio ghi lại trong cuốn Vivre au Vietnam như sau: “Không ai nói ngọt hơn Lý Chánh Trung được. Mặc dù trong thâm tâm họ biết là họ đang nói dối, đang đóng kịch. Nhưng điều quan trọng là lời nói đã phát ra thì không thu lại được”. Đó là những tiếng chửi rất nặng nề của trí thức đối với trí thức. Không biết bọn nằm vùng nầy có hiểu và cảm thấy nhục nhã hay không?

Ngô Công Đức cũng đã sáng mắt ra, trước khi chết cũng để lại chúc thơ bộc bạch phân trần đôi điều, nhưng quá muộn. Nói chung, những tên VC nằm vùng đã mở mắt ra, và té ngửa hết, nhưng đã muộn cho một cuộc đời.
Tại sao Tin Sáng sống được 5 năm dưới chế độ Cộng Sản?
Thứ nhất, báo Tin Sáng nịnh bợ VC hơn báo VC.
Thứ hai, Võ Văn Kiệt nhận thấy người dân miền Nam còn căm thù VC. Từ đổi tiền, đuổi đi kinh tế mới, cải tạo thương nghiệp, xếp hàng mua gạo, ăn độn, chồng, con, cha mẹ của đa số bị tù cải tạo. Người dân chưa thấy cái “ưu việt” của XHCN như tuyên truyền. Trong khi đó, báo Sài Gòn GP thì còn non trẻ, chờ cho đến khi thành lập tờ Thanh Niên, nói theo giọng điệu o bế người dân, trình diễn màn lừa bịp, là “nói thẳng, nói thật”…, vì thế Võ Văn Kiệt chưa khai tử báo Tin Sáng, để cho sống 5 năm trong tình trạng trái ngược, là mỗi khi số lượng phát hành gia tăng lên cao, thì ban biên tập lại hồi hộp chờ ngày giờ kết liểu cuộc đời nịnh bợ.
2.5. Trí thức thân cộng và bọn “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản”
Ở miền Trung thì nổi bật những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha, Trần Quang Vọng,Trần Hữu Lực, Trần Duy Phiên, Lê Văn Ngăn, Trần Vàng Sao, Võ Quê…
Hoàng Phủ Ngọc Tường phải sống những ngày khổ nhục, oán hận, khi thấy người đồng chí trẻ của y là Bửu Chỉ đang ngủ với vợ của y là nữ đồng chí, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
Ở miền Nam, thì có Tôn Nữ Thị Ninh, LS Trần Ngọc Liễng, GS Lý Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành. Những LM Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, các thượng tọa Thích Trí Quang, Nhất Hạnh.
2.6. Thành phần thứ ba và Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói
“Theo chỉ đạo của ta, một lực lượng chính trị mới ra đời, đó là “Thành phần thứ ba” gồm trí thức, nhân sĩ, binh sĩ, dân biểu, báo chí, tu sĩ, công thương gia, cựu tướng lãnh, có khuynh hướng chống Thiệu, đòi hoà bình, nổi bật nhất là các nhân vật như LS Trần Ngọc Liễng, Ngô Bá Thành, KS Dương Văn Đại, DB Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, Nguyễn Văn Hàm, Lý Chánh Trung, LM Phan Khắc Từ, Thích Pháp Lan, ni sư Huỳnh Liên và nhà báo Nam Đình”. Tướng Dương Văn Minh đại diện cho thành phần nầy ra đảm nhiệm chức Tổng thống.
Ni sư Huỳnh Liên, tịnh xá Ngọc Phương biểu tình chống chính quyền Sài Gòn năm 1973
Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói
Ra đời tháng 9 năm 1974 do Đại đức Thích Hiển Pháp làm Chủ tịch. Dân biểu Nguyễn Văn Hàm làm Tổng Thư ký. Các nghệ sĩ Kim Cương, Thanh Nga tích cực tham dự. Ni sư Huỳnh Liên, LM. Phan Khắc Từ, các DB Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Nhuận, GS Lý Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành…
“Ta đưa một số cán bộ đứng tên vào mặt trận: Ngọc Trảng, Ba Thép, Xuân Thượng, với khẩu hiệu “Lá lành đùm lá rách” ẩn chứa nội dung tố cáo chế độ. Hình thức biểu tình rất sáng tạo, biểu tình có ca hát “Dậy mà đi”. Biểu tình “xa luân chiến”, không lớn mà liên miên từ ngày nầy qua đêm khác, đêm nầy qua đêm nọ như bánh xe quay, làm cho cảnh sát ngụy mất ăn mất ngủ”. Phong trào thì công khai, nhưng ra báo thì bí mật. Công khai thì có Kiều Mộng Thu trong báo Đại Dân Tộc, ở tờ Điện tín thì có Lý Chánh Trung. Về phía bí mật, Cứu Đói in 10,000 bản phổ biến trong quần chúng.
Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói lập khối Dân Tộc Xã Hội ở Hạ Viện để đấu tranh nghị trường.
Tổ chức “báo nói”, “văn nghệ chạy”, “biểu tình ngồi”, “phát chẩn”.
Ni sư Huỳnh Liên sinh tại Mỷ Tho năm 1923, mất ngày 16-4-1987, tên thật là Nguyễn Thị Trừ, ni sư trưởng Tịnh xá Ngọc Phượng. Đại biểu QH Khoá VI. Phó Chủ tịch UB/MTTQ Sài Gòn, Ủy viên TW MTTQ/VN.
Bọn cứu đói cứng họng, cảm thấy ô nhục khi nhân dân kêu đói, khi đồng bào ăn bo bo, ăn độn mà chúng lặn mất, im thin thít của thái độ hèn nhát, lưu manh.
3* Dân biểu Việt Cộng nằm vùng và dân biểu thân cộng
Trên tờ Tuổi Trẻ trong nước, bài viết đề ngày 31-7-2012 với tựa đề “Dân tin người thật tâm, thật tài”, nói đến 2 dân biểu VNCH là những “chứng nhân lịch sử” của 37 năm về trước. Đó là dân biểu Nguyễn Văn Hàm từng giữ cương vị Phó Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn, sau ngày 30-4-1975, và dân biểu Đinh Văn Đệ, từng làm Chánh Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH.
DB Nguyễn Văn Hàm
3.1. Dân biểu Nguyễn Văn Hàm
Nguyễn Văn Hàm khoe thành tích như sau: “Ở Sài Gòn có những cuộc biểu tình mà tôi và những người khác đã tổ chức rất công phu như “phong trào cứu đói”, “ký giả đi ăn mày”. Cũng có những cuộc biểu tình tự phát, không cần ai tổ chức cả. Quần chúng qui tụ quanh chúng tôi, gọi là “lực lượng thứ ba”.
“Quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi, Nguyễn Văn Hàm làm thơ, viết báo, giảng dạy triết học, văn chương. Tham gia Quốc Hội Hạ Viện khoá 2 (1971), là một dân biểu đối lập, thủ lĩnh phong trào quần chúng Phật giáo”.
Sau 1975, đương sự làm Phó Chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân, bên cạnh Ủy Ban Nhân Dân. Hội đồng chả có quyền hạn gì cả, rồi hắn bị đá ra. Vợ và con vượt biên qua Úc. Có đứa con gái đang sống ở Minnesota, nhưng không nhìn cha.
3.2. Dân biểu Đinh Văn Đệ
Sau năm 1975, nhiều người “bức xúc” khi thấy cựu dân biểu Đinh Văn Đệ ra vào làm việc trong Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Sài Gòn. Võ văn Kiệt cho biết : Hắn là người Cộng Sản mà không có đảng” (Il est Communist sans party)
Đinh Văn Đệ
3.2.1. Đinh Văn Đệ là lính VNCVH
Tờ báo viết: “Ông Đinh Văn Đệ bị động viên đi lính rồi trở thành trung tá Chánh văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH (1954-1961). Làm Tỉnh trưởng Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà Lạt (1963). Tỉnh trưởng Bình Thuận (1964-1967).
Năm 1967, ra ứng cử dân biểu Quốc hội. Giữ chức Chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện. Tổng thống Thiệu cử ông làm “trưởng phái đoàn” sang Mỹ xin viện trợ khẩn cấp. Kết quả chuyến đi, ông Đệ được Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam tặng thưởng Huân Chương Chiến Công hạng nhất.”
Đinh Văn Đệ phát biểu: “Tôi được giáo dục từ nhỏ, mang sẵn trong lòng tình yêu nước thực sự, yêu con người thực sự, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chính thể. Bị động viên, tôi đành phải đi lính, và luôn luôn giữ cái tâm lành, trung thực, ngay thẳng. Bao nhiêu năm đeo lon, đeo súng, tôi không một lần sát sanh. Bây giờ xuất gia, theo đạo Cao Đài”.
Đinh Văn Đệ sinh năm 1924, mồ côi cha lúc 15 tuổi. Nhà nghèo, học hết Trung học đệ nhất cấp rồi ra đi dạy học, theo đạo Cao Đài.
3.2.2. Người có công xây dựng gián điệp U 4
Năm 1969, danh sách điệp viên của tình báo chiến lược Việt Cộng có thêm một tên mới, Đinh Văn Đệ, bí số U 4.
Người có công đầu, móc nối, tác động, xây dựng U 4, là Đinh Văn Út, chú của Đinh Văn Đệ. Út có bí danh là Chín Mẫn, sinh năm 1919 tại Châu Đốc. Chín Mẫn thuộc phòng tình báo T4 của Thành Ủy Sài Gòn Gia Định, thuộc Trung Ương Cục miền Nam, còn gọi là Cục R, B2 và “Ông Cụ”. T4 do Mười Hương phụ trách.
Năm 1969, Đinh Văn Đệ cung cấp tài liệu kinh tế hậu chiến của VNCH, chính Đệ lấy xe riêng đưa người và tài liệu đến nơi an toàn. Cũng năm nầy, Đệ thoả thuận và tiếp nhận toàn bộ qui ước liên lạc, mực mật, giấy viết mực mật, thuốc hiện mực mật, vật ngụy trang, mật khẩu giao liên… nói chung, Đinh Văn Đệ, Chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện Quốc Hội VNCH, đã chính thức trở thành một gián điệp của Việt Cộng, mang bí số U 4 trực thuộc phòng Tình báo mật danh J.22 của Cục R (còn gọi là B2). Em của Đinh Văn Đệ là Đinh Văn Huệ, trước làm chính trị viên tiểu đoàn giao thông vũ trang thuộc J. 22
Đinh Văn Đệ
Đinh Văn Đệ kể những chiến công như sau. 

1). Kế hoạch oanh kích Lộc Ninh
“Sau khi ta (VC) giải phóng Phước Long ngày 6-1-1975, đồng chí Phạm Hùng muốn biết địch (VNCH) có ý định tái chiếm Phước Long hay không? Tôi được giao phó nhiệm vụ trả lời câu hỏi nầy.
Trước hết, tôi điện qua Phủ Thủ Tướng, mời Tổng trưởng Quốc Phòng ra điều trần trước Hạ Viện, tại sao thất thủ Phước Long? Trách nhiệm của ai?
Tại buổi điều trần, Tổng trưởng QP đổ mồ hôi hột, bối rối vì bị chất vấn sôi nổi, tới tấp. Tôi binh vực và đề nghị, mỗi lần điều trần như thế nầy vất vả lắm, vậy Bộ QP cấp cho tôi cái giấy được tự do ra vào các nơi liên hệ, để hỏi trực tiếp các cấp chỉ huy phần hành. Thế rồi, với tờ giấy trong tay, tôi đến Phòng Hành Quân, thì gặp ngay người quen biết cũ, là một chuẩn tướng, ông ta nói: “Đại ca đừng lo. Ai lại dại gì kéo quân đi lấy lại nơi mà mình phòng thủ đã bị thất bại. Tôi sẽ trả thù bằng cách dội bom cho nát Lộc Ninh”.
Tôi báo cáo tin đó. Vài hôm sau, địch (VNCH) đã ném bom Lộc Ninh, nhưng quân ta tránh được thiệt hại.
2). Trung Ương Cục ở đâu?
Trung Ương Cục Miền Nam (TWCMN) hay Cục R, B2, “Ông Cụ”, là cơ quan đại diện cho Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, để chỉ đạo chiến trường miền Nam. Ban Anh ninh TWCMN do thiếu tướng Cao Đăng Chiếm phụ trách từ năm 74 đến 75.
Ban An Ninh T4 thuộc về Thành Ủy Sài Gòn Gia Định do Mười Hương phụ trách.
TWCMN hỏi tôi là địch (VNCH) có biết Cục R ở đâu không?
Tôi gọi điện qua Bộ QP/VNCH xin 3 chiếc trực thăng, cho tôi là Chủ tịch Ủy Ban QP/HV, cho Trung tướng Tôn Thất Đính, nghị sĩ, Chủ tịch UB/QP Thượng Viện và cho Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng, mỗi người một chiếc trực thăng, thành lập một phái đoàn đi ủy lạo binh sĩ đang cố thủ tại Pleiku, Đà Nẳng và Bến Cát (SĐ 5 đóng ở Bình Dương). Đi đến đâu tôi cũng hỏi các cấp chỉ huy “Địch nó biết rõ vị trí của ta, vậy ta có biết Cục R ở đâu không? Tôi đúc kết các câu trả lời và báo cáo về Cục R.
3). Xin viện trợ để cắt viện trợ
“Tôi tham gia phái đoàn sang Mỹ để xin viện trợ khẩn cấp, vì Thiệu ngoan cố, cố chống giữ. Phái đoàn chia nhau đi “vận động hành lang” với các cơ quan và chính khách Mỹ. Trước khi đi, tôi suy nghĩ, làm thế nào để vận động xin viện trợ mà kết quả là bị cắt viện trợ. Khi sang Mỹ, mỗi dân biểu, nghị sĩ đều có nhân viên của toà đại sứ đi kèm, nếu sơ hở là bị lộ ngay.
Với cái chiêu “nói vậy mà không phải vậy”, làm cho các đại biểu trong đoàn thấy tôi là người tận tâm, tha thiết nhất trong việc xin viện trợ để cứu chế độ Sài Gòn.
Với mục đích làm cho Mỹ nản chí và bỏ cuộc, tôi đưa ra hình ảnh của người lính VNCH không còn muốn chiến đấu, đã bỏ chạy bằng cách níu càng trực thăng, trốn ra khỏi chiến trường, thì người Mỹ hiểu ngay là họ phải làm gì.
Khi tiếp phái đoàn, Tổng thống G. Ford cho biết: “Thôi các bạn cứ yên tâm ra về, tôi sẽ cử một viên tướng qua thị sát tình hình rồi sẽ có quyết định sau”. Nghe vậy, tôi hiểu là Mỹ đã bỏ cuộc”.
Theo chỉ thị của trên, Đinh Văn Đệ đã đưa một gián điệp mang bí danh “Số 6” vừa tốt nghiệp cao học nước ngoài vào làm việc trong Ủy Ban QP của Hạ Viện QH/VNCH.
Đinh Văn Đệ qua cái nhìn họa sĩ Ớt vào thời điểm trước năm 1975
Năm 1972, tình báo Hà Nội đã nhận đầy đủ chi tiết về hệ thống tổ chức, về quân số ở các quân khu, về ngân khoản QP/VNCH, thậm chí còn nhận những khoản viện trợ không công khai cho VNCH, ẩn dưới chương trình PL (Program Law), thương mại hoá, tức không viện trợ bằng tiền, mà bằng hàng hoá, để VNCH bán lấy tiền dùng cho quân sự.
Sau khi 2 giao liên Ngô Viết Triều và Nguyễn Thị Thành bị bắt, cuối năm 1971, Đinh Văn Đệ được chuyển sang hoạt động đơn tuyến, nhận lịnh trực tiếp của Cục R thông qua một nữ tình báo giao liên.
     Đinh Văn Đệ
Đinh Văn Đệ hiện sống ở Sài Gòn vẫn khỏe mạnh và nổi tiếng là một Thiên Vương Tinh đức cao trọng vọng của đạo Cao Đài. 

Có một điều Đinh Văn Đệ dấu đầu lòi đuôi là “tôi luôn luôn có cái tâm lành, trung thực và ngay thẳng”. Một tên gián điệp phản quốc, sống dối trá, hành động phản bội mà còn cái gì gọi là tâm lành, trung thực, ngay thẳng cho được?
4. Sinh viên nằm vùng
4.1. Danh sách 16 sinh viên bị chính quyền VNCH bắt giữ
Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Lê Thành Yến, Phùng Hữu Trân, Trần Khiêm, Đỗ Hữu Ứng, Lê Anh, Võ Ba, Đỗ Hữu Bút, Hồ Nghĩa, Cao Thị Quế Hương, Trương Hồng Liên, Trương Thị Kim Liên, Võ Thị Tố Nga.
4.2. Danh sách sinh viên thoát ly ra căn cứ Bắc Lộ 7, Campuchia
Phan Công Trình, Nguyễn Đình Mai,Tôn Thất Lập, Trần Long Ân, Nguyễn Văn Sanh, Lê Thành Yến, Trương Quốc Khánh, Huỳnh Ngọc Hải, Huỳnh Quang Thư, Dương Văn Đầy, Trần Ngọc Hảo, Hai Nam, Năm Sao, Trần Thị Ngọc Dung, Hà Văn Hùng, Trương Quốc Khoách.
4.3. Sinh viên Việt Cộng nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm
4.3.1. Huỳnh Tấn Mẫm
Huỳnh Tấn Mẫm tên thật là Trần Văn Thật, sinh năm 1943 tại Sài Gòn. Trước 1975 là một đảng viên cộng sản nằm vùng, hoạt động công khai ở Sài Gòn. Sau 1975, học tiếp y khoa, ra bác sĩ. Sang học Liên Xô về Triết học Mác Lênin.
Trở về VN được cử làm Tổng Biên Tập báo Thanh Niên. Là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc và hội viên Hội Liên Hiệp Thanh Niên.
Với những chức vụ như thế, Huỳnh Tấn Mẫm (HTM) trở thành một cán bộ thuộc hàng cao cấp, có tiếng tâm của Sài Gòn.

Huỳnh Tấn Mẫm
4.3.2. Huỳnh Tấn Mẫm mở mắt nhưng quá trễ
Con đường hoạn lộ của HTM bị nhiều trắc trở, vì thực tế sau 1975 cho thấy, cái quan điểm tự do dân chủ kiểu “tư sản” của miền Nam không còn được áp dụng trong chế độ chuyên chế XHCN. Ngoài HTM ra, các sinh viên VC khác cũng đều vở mộng, cho nên đã thể hiện những hành động bị cho là “chệch hướng”, không được lòng đảng vì khác đường lối, nên bị hạ tầng công tác, loại trừ.

Đã vậy, vợ của cán bộ cao cấp lại làm chủ hụi và giựt hụi. Vợ ra toà lãnh án đã đành, Huỳnh Tấn Mẫm còn bị kêu ra toà làm chứng chống lại vợ, nên mất uy tín.
Thế là một cuộc đảo chánh trong nội bộ, đã khai trừ HTM ra khỏi tờ báo Thanh Niên năm 1990. Được chuyển về Hội Hồng Thập Tự, làm bác sĩ phụ trách phòng mạch miễn phí, thế là hết cơ hội chấm mút, thu hoạch như các đồng chí khác trên đường hữu sản hoá cán bộ trong thời đổi mới, mở cửa.
Mở phòng mạch ngoài giờ, chuyên chăm sóc da mặt, nặn mụn cho phụ nữ, nhưng chẳng có ai chiếu cố tới, vì bác sĩ cách mạng, có một thời không được bịnh nhân tin tưởng bằng “bác sĩ ngụy”. Riêng cá nhân HTM, trước kia chỉ lo biểu tình, đấu tranh, chạy trốn và ở tù, thì còn ngày giờ đâu mà học với hành. Hơn nữa, đảng cần “hồng” hơn “chuyên”, chỉ cần có quan điểm lập trường 101% cộng sản là một bác sĩ tốt rồi. Phòng mạch ế. Bị gán là bác sĩ chính trị, mà thứ chính trị của CNCS đã bị ném vào sọt rác từ lâu rồi. Người ta nhận xét: “bác sĩ nửa vời, chính trị nửa vời, cuộc đời cũng nửa vời, gia đình tan nát, sự nghiệp tiêu tan. Hình ảnh “anh hùng” vang bóng một thời, làm rung chuyển chế độ miền Nam đã chấm dứt trong cay đắng, chán chường, tiêu cực, mệt mõi”.
Kể ra ông trời cũng có con mắt.
5. Thành Đoàn Cộng Sản Sài Gòn Gia Định lộng hành
Thành Đoàn là tên gọi tắt của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh đang hoạt động trong nội thành Sài Gòn.
5.1. Thành Đoàn Cộng Sản giết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật
Ngày 28-6-1971, Biệt Động Thành bắn chết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật ngay tại hành lang trường Luật Sài Gòn.
Ban ám sát Thành Đoàn cử 2 tên tới Đại Học Luật Khoa, số 4 đường Duy Tân, nhận là người nhà muốn gặp Lê Khắc Sinh Nhật có việc cần. Lúc đó, sắp tới mùa thi cuối năm, Nhật đang hướng dẫn sinh viên năm thứ nhất về cách thức thi cử tại một giảng đường. Nhật vừa ra tới hành lang, thì một tên móc súng bắn liền 3 phát vào ngực. Hắn phóng lên một chiếc Honda nổ máy chờ sẵn. Hắn ném lại một quả lựu đạn nhưng may mắn, lựu đạn không nổ. Cảnh sát gác bên ngoài bắn 3 phát chỉ thiên. Nhạc sĩ Vũ Thành An sáng tác một bài hát tưởng niệm Lê Khắc Sinh Nhật.
Lý do giết SV Lê Khắc Sinh Nhật
Thành Đoàn CS giết SV Lê Khắc Sinh Nhật (LKSN) vì 2 lý do:
Một là răn đe các sinh viên thuần túy, có tinh thần quốc gia
Hai là để trả mối hận bị đánh bại trong 2 cuộc bầu cử, mà Liên danh của LKSN đã thắng Liên danh SV Việt Cộng Trịnh Đình Ban, trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện SV trường Luật niên khoá 1970-1971. Và đã thắng Liên danh SV/VC trong tay Thành Đoàn trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, tại Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp (Nông Lâm Súc) ngày 20-6-1971. Trong cuộc bầu cử nầy, khi thấy kết quả nghiêng về phía Liên danh LKSN do SV Lý Bửu Lâm đứng đầu, thì bọn SV/VC giở ngay bản chất côn đồ, nhảy lên bục “đá thùng phiếu để hủy bỏ kết quả bầu cử” và ấu đả, hỗn chiến xảy ra” (Trích trong “Trui rèn trong lửa đỏ” trang 21 của thiếu tướng Trần Bạch Đằng)
Bị thất bại trong cuộc bầu cử, Thành Đoàn CS cay cú, đưa ra 2 quyết định:
Một là, sát hại SV Lê Khắc Sinh Nhật
Hai là, chỉ thị cho SV Huỳnh Tấn Mẫm, tập họp một số SV tại Tổng Vụ Thanh Niên Phật Tử, số 294 Công Lý, vào ngày 28-7-1971 để bầu ra một tổ chức ma, chưa bao giờ có, đó là “Tổng Hội Sinh Viên VN” do Huỳnh Tấn Mẫm làm Chủ tịch. Tổ chức nầy không đại diện cho ai cả, ngoài đám SV/VC và một số ít bị lừa.
Quyết định hạ sát SV Lê Khắc Sinh Nhật là một hành động tội ác của Thành Đoàn CS/SG.
5.2. Thành đoàn CS/SG giết GS Nguyễn Văn Bông
Ngày 10-11-1971, SV/VC Vũ Quang Hùng (bí danh Ba Diệp, năm thứ 3 Khoa học) và tên Lê Văn Châu, dùng chất nổ ám sát chết GS Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Quốc Gia Hành Chánh, tại ngã tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản. Hai tên Hùng và Châu thuộc Trinh sát võ trang bí số S1, hoạt động nội thành SG-GĐ, thuộc Ban An ninh T4 của Thành Ủy SG-GĐ (trong mật khu). Cả hai bị bắt, đày đi Côn Đảo.
Sau ngày 30-4-1975, Vũ Quang Hùng viết : “Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng” và rất hảnh diện về thành tích đó. Tên Hùng giải thích lý do giết GS Nguyễn Văn Bông như sau: “Tin tình báo cho biết, GS Nguyễn Văn Bông sẽ làm thủ tướng vì chính quyền ngụy muốn chuyển từ quân sự sang dân sự. GS Bông là một trí thức rất có uy tín mà lên làm Thủ tướng, thì cách mạng sẽ khó khăn hơn. Để giữ bí mật, tôi đặt tên mục tiêu phải giết với bí số G.33”.
Đến tháng 4 năm 2000, trong lễ kỷ niện 25 năm ngày “chiến thắng 30 tháng 4”, nhà báo chuyên về tình báo Nam Thi của báo Thanh Niên, cũng kể lại “thành tích” nầy, trong đó có sự trợ giúp đắc lực của SV kiến trúc Nguyễn Hữu Thái, người đã theo tướng Dương Văn Minh đến đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng trong ngày 30-4-1975. Chính SV Nguyễn Hữu Thái làm “xướng ngôn viên bất đắt dĩ”, đã giới thiệu tướng DVM đọc tuyên bố. Sau đó, Nguyễn Hữu Thái xuất cảnh sang Canada theo diện đoàn tụ gia đình.
Phu nhân của GS Bông có lẻ đã biết tên tòng phạm nầy.
Trong phỏng vấn của đài RFA, ký giả Mạc Lâm ghi lại như sau: “Đã hơn 40 năm, những nạn nhân như bà Lê Thị Thu Vân, tức bà Jackie Bông, phu nhân của cố giáo sư lừng danh Nguyễn Văn Bông, bị tên SV Vũ Quang Hùng ám sát, tuy không bao giờ quên nổi biến cố bi thương, bổng ập xuống cuộc đời bà và các con nhỏ dại của bà năm xưa. Nhưng bà đã lấy tâm Phật mà “cầu nguyện cho ông ấy (tức tên Vũ Quang Hùng, kẻ đã giết chồng bà) và mong nhà cầm quyền Hà Nội “mở mắt ra”, “mở tấm lòng ra”. (RFA ngày 5-5-2011)
Ngoài việc ám sát GS Nguyễn Văn Bông, Thành Đoàn còn ném lựu đạn M-26 vào xe của BS Lê Minh Trí, Tổng trưởng GD&TN ngày 6-1-1969.
Hai tháng sau, đến lượt BS Trần Anh, Tân Viện Trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, bị bắn chết trước cổng trường Chu Văn An, bên cạnh Đại học xá Minh Mạng, ngang nhà thờ Ngã Sáu, Chợ Lớn. BS Trần Anh đang đi bộ từ Bộ Y Tế trên đường về nhà ở bên cạnh Đại học xá Minh Mạng.
6* Phan Nhật Nam tố cáo Việt Cộng nằm Vùng
6.1. Thiếu tá “VC Killer” Thái Quang Chức
Trong bài viết tựa đề “Những tên Việt Cộng nằm vùng”, một thiếu tá Hải quân có danh hiệu là “VC Killer” mang tên Thái Quang Chức, em của tướng Thái Quang Hoàng.
Năm 1957, thanh niên Thái Quang Chức lội qua sông Bến Hải vượt tuyến vào Nam. Tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức, về làm việc tại Bộ Tư Lịnh Hải Quân Vùng 4, Sông Ngòi, Mỷ Tho.
Năm 1970, mang lon thiếu tá, nổi tiếng là “VC Killer”, vì sau cuộc hành quân, xác VC được kéo chạy trên sông để biểu dương ý chí chống Cộng.
Trong những ngày sau cùng của tháng 4 năm 1975, tướng Thái Quang Hoàng cho người em xuống Mỷ Tho gọi Chức về để cùng gia đình di tản, đương sự quyết định ở lại để góp phần xây dựng quê hương.
Trình diện học tập cải tạo, Chức được đưa đến trại Hoàng Liên Sơn.
Hai năm sau, năm 1977, một người mặc thường phục đến bộ chỉ huy đoàn 776, đưa thiếu tá “VC Killer” ra khỏi trại, về làm nhiệm vụ mới.
6.2. Trung úy Trần Trung Phương, tiểu đoàn 3 Nhảy dù, VC nằm vùng
Do được giới thiệu, tác giả đến một đường dây chạy giấy xuất cảnh. Đến một cơ sở không có bảng hiệu, nhân viên thường phục tiếp đón với thái độ “chúng tôi đã biết rõ tất cả”, “chào anh Nam, anh có mạnh không?”. Anh ta nói: “Tôi biết anh nhiều lắm”, rồi mở tủ hồ sơ lấy ra cho coi Chứng Chỉ Nhảy Dù do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn Dù cấp, có ký tên đóng dấu của trung tá Trần Văn Vinh.
Anh ta tự giới thiệu: “Trung úy Trần Trung Phương, gốc Đại Đội 33, tiểu đoàn 3 Dù, đơn vị cuối cùng là “Biệt Đội Quân Báo Điện Tử Sư đoàn. Là nhân viên Đặc vụ Sở Phản Gián Bộ Nội Vụ (Cộng Sản).
Điều kiện đưa ra, tôi có thể làm hồ sơ cho anh ra khỏi VN tối đa là 8 tháng. Gia đình anh tại Mỹ phải trả cho người của chúng bên đó 2,000 đô là, và kèm thao một số điều kiện…
“Lẽ tất nhiên, tôi không chấp nhận điều kiện của Phương, từ 2,000 đô la đến “những điều kiện khác…”.
Sau đó, năm 1993, để giúp một người quen cần phải xuất cảnh để giải quyết những khó khăn, tôi tìm đến Trần Trung Phương ở một địa chỉ mới, là một văn phòng ở khách sạn đường Nguyễn Văn Trỗi, nhân viên văn phòng cho biết, ông Phương đang Hoa Kỳ, ở vùng Westminster, Cali.
Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, Hạ Lào, những bãi đáp đổ quân, những vị trí tấn công, toạ độ dội bom B-52 của SĐ Dù, đã bị quân báo VC giải mã từ cơ quan đầu mối, tối cao, là Biệt Đội Điện Tử và Phòng Hành Quân SĐ.
Ngày 30-4-1975, viên hạ sĩ quan ở đơn vị đó mà tôi biết, đã dẫn trung tá Nguyễn Văn Tư, Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh SĐ Dù, qua Camp Davis để giao nộp hồ sơ trận địa của đơn vị mà hạ sĩ quan nầy đã lưu giữ từ hơn 10 năm trước đó.
Phan Nhật Nam: “Tôi có bổn phận chỉ đích danh những cá nhân tác hại, điển hình như Trần Trung Phương, Thái Quang Chức, những hạ sĩ quan và những công an VC, đã đi theo diện ghép với những gia đình HO và ODP hiện tràn lan khắp các cộng đồng người Việt hải ngoại”.
Ngoài những tên VC nằm vùng mà ông Phan Nhật Nam nêu trên, còn có 1 tên vô cùng lợi hại, đó là một thượng sĩ.
“Giữa tháng 4, 1975, Bộ Chính Trị nêu vấn đề, nếu chúng ta đánh lớn, liệu Mỹ có nhảy vào cứu nguy hay không?
Giải đáp câu hỏi nầy là công lao của đồng chí Nguyễn Văn Minh, là thượng sĩ giữ hồ sơ tuyệt mật của Cao Văn Viên. Lúc đó, thư của TT/HK gởi cho Thiệu: “Cuộc chiến tranh VN coi như đã chấm dứt đối với Mỹ, chi viện 700 triệu đô la, còn mọi việc khác thì tùy theo quý ngài định liệu”. Bản sao bức thư được gởi cho Cao Văn Viên. Đồng chí Minh lập tức chép lại, gởi ra bộ chỉ huy miền. Nhờ tài liệu nầy mà BCT nắm được điểm yếu của địch, nên nêu phương châm tấn công “Thần tốc - Táo bạo - Chắc thắng”.
7* “Những bí ẩn của báo Người Việt”
Đó là cái tựa của bài viết trên tờ SGN ngày 28-7-2012.
Căn cứ vào 2 trang web Tân Đại Dương và trang tài liệu 401k-plans, để xác định “Nguoi Viet Daily News không phải là một công ty,, “Corporation Nguoi Viet Inc.” như đã công bố trên báo chí. Tác giả bài viết đặt câu hỏi: “Ai là chủ thực sự của báo Người Việt?”
Đây là một câu hỏi cần được phải trả lời để đánh tan những nghi ngờ gần như xác định về báo Người Việt, đang sôi nổi trong những ngày gần đây. Đương nhiên là báo NV có quyền không trả lời, tuy nhiên, nếu không trả lời rõ ràng và hợp lý thì dễ biến sự nghi ngờ trở thành xác định.
Hôm nọ, xem ông Ngô Kỷ liệt kê “thành tích” của báo Người Việt trên You Tube, thì quả thật, báo Người Việt rất đúng, chẳng sai tí nào đối với những tố cáo của các đoàn thể vừa qua. Hết phương chối cãi. Những lời lẻ binh vực xem như ngụy biện, không thuyết phục.
8* Kết
Đem tình trạng “Việt Cộng nằm vùng ở miền Nam trước năm 1975”, đặt vào tình trạng của phong trào đấu tranh cho một nước VN tự do, dân chủ, nhân quyền hiện tại, thì mới thấy rõ bài bản, âm mưu và kỹ thuật đánh phá của VC trong nước. Thời nào cũng vậy, ở đâu cũng có bọn lưu manh nằm vùng cả. Bản chất của bọn nằm vùng là gian manh, xảo trá và phản bội, tôi ác của bọn chúng là đã góp phần đưa dân tộc VN vào chế độ độc tài Cộng Sản hiện nay.
Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ, đừng có tưởng chết là hết.

Trúc Giang