Monday, May 14, 2018

Những người làm chứng gian By Huy Phương

Từ trái sang: Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trịnh Công Sơn, (chụp trong khai mạc triển lãm ảnh Dương Minh Long tại Huế 1995)

Trong ngành tư pháp, trước toà án hay trong vòng điều tra, một lời khai báo gian dối, không đúng sự thật được xem là một trọng tội; xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người khác.
Nếu người làm chứng khai báo gian dối khác với sự thật mà mình biết thì sẽ gây rất nhiều khó khăn trong công tác điều tra của cơ quan chức năng. Do đó, pháp luật có những quy định và hình phạt đối với hành vi người làm chứng gian.
Ngày nay tại hải ngoại, nơi có nhiều người Việt đang sinh sống, chúng ta thấy và nghe đầy dẫy những lời chứng gian trong các địa hạt, nhiều nhất hiện nay là món “dược thảo!” Ðể củng cố lòng tin của khách tiêu dùng, người ta đã mời rất nhiều khuôn mặt nổi tiếng trong cộng đồng trong giới thể thao, điện ảnh, âm nhạc, sân khấu… để mời mọc giới tiêu thụ bằng những lời lẽ không thật, gian dối, tức là những lời chứng gian.
Tâm lý quần chúng là nghe theo những lời chứng này. “Thuốc không hay sao trên đài phát thanh và truyền hình người ta khen dữ vậy!” “Thuốc không hay sao diễn viên này khen, ca sĩ nọ giới thiệu!”
Cuối cùng họ đem số phận và sức khỏe của mình thử thách cùng một loại nghệ thuật quảng cáo rất tầm thường nhưng có mãnh lực thu hút và nhồi nhét ý niệm rất mạnh mẽ!
Quần chúng thì chạy theo thần tượng, tên tuổi nên “cả tin” những gì họ nói, phô này, đôi khi cả những lời thề thốt, nhưng sự thật chưa bao giờ người quảng cáo có can đảm, uống một viên thuốc hay dùng sản phẩm của viện bào chế hay nhà sản xuất nọ đưa ra thị trường. Cựu ứng viên Tổng thống Mỹ Bob Dole năm 70 tuổi đã quảng cáo cho loại thuốc cường dương Viagara, nhưng liệu thứ thuốc này hiệu nghiệm với ông như thế nào, vì đây là chuyện phòng the riêng tư của vợ chồng ông.
Trong chuyện chính trị, nói dối và hứa gian là những chuyện thường tình. Ðể tuyên truyền hay tán dương cho một chế độ người ta đã không thương tiếc khi dùng những kẻ gian dối để làm chứng gian cho họ, và những kẻ chứng gian đã sẵn sàng bỏ qua lương tâm và sự thật để “biểu diễn lập trường,” trả nợ cơm áo hay vì sợ hãi cường quyền.
Vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế năm 1968, qua cuốn phim của Lê Phong Lan với những “nhân chứng” xứ Huế như Nguyễn Ðắc Xuân , Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trịnh Công Sơn là những chuyện làm chứng gian nguy hiểm nhất!
Trong một khúc phim, Lê Phong Lan phỏng vấn Nguyễn Ðắc Xuân, Xuân đã phủ nhận hoàn toàn chuyện thảm sát, nghĩa là Cộng Sản không giết ai cả, đây là do phản kích tâm lý chiến của phe VNCH, và Huế là nơi duy nhất đã đạt được cả hai mục tiêu “tấn công” và “nổi dậy”. Sự thật việc “tổng nổi dậy” là một chuyện hoang tưởng của phe Cộng Sản, không ai minh chứng được tên tuổi hay đơn vị quân đội, quần chúng địa phương nào đã “nổi dậy!” Sự thật là Việt Cộng đi đến đâu, dân Huế bỏ chạy đến đó, nghe chữ Việt Cộng là dân Huế “vãi đái” rồi. Ðây cũng là một thứ miệng lưỡi gian xảo của một người chứng gian được gọi là nhà “sử học!” Hay ông cho rằng quân nổi dậy được đếm trên đầu ngón tay, là anh em nhà họ Hoàng, cha con Nguyễn Ðoá và ông?
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một chứng gian tệ hại hơn. Luôn luôn nói rằng mình, trong thời gian Tết Mậu Thân, không có mặt ở Huế, nhưng trước ống kính truyền hình quốc tế thì Tường làm chứng gian rằng mình đã “lội” trong máu, mà không biết, khi bật đèn pin lên mới thấy đó là máu của 200 nạn nhân, trong một cuộc ném bom vào một bệnh viện trong thành nội Huế. Tôi chưa nói đến sự phi lý máu của 200 người chảy từ bệnh viện ra đường, thứ máu không đông đến nỗi ngập đường mà ông Tường phải “lội” mà không nghe mùi tanh. Tường cũng làm chứng gian nói rằng những phụ nữ miền Nam mang thai, có chồng tập kết ra Bắc đều bị công an, cảnh sát đạp cho văng thai nhi ra ngoài, và công chức Huế mỗi ngày Lễ Tết đều phải đến quỳ lạy tại nhà ông Ngô Ðình Cẩn. (số này đương nhiên là phải có HPNT và tác giả bài viết này!)
Khi nghe Nguyễn Ðắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường “ăn gian nói dối” chúng ta không ngạc nhiên vì họ là những người Cộng Sản, nhưng đến phiên Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ có tài đã để lại nhiều sự ái mộ trong lòng quần chúng, cũng chịu làm chứng gian cho bộ phim chối tội “Mậu Thân 1968” của Lê Phong Lan thì chúng ta hoàn toàn thất vọng!

Phát biểu của Trịnh Công Sơn trong bộ phim Mậu Thân 1968 của Lê Phong Lan là: “ …quân đội Bắc Việt Nam vô cùng nghiêm túc, kỷ luật, không hề có chuyện thảm sát!”. 
Tôi là một nhân chứng có mặt Huế trong suốt thời gian 24 ngày trước khi quân Việt Cộng rút ra khỏi Huế. Trong thời gian này, gia đình Trịnh Công Sơn, có cả Ðinh Cường từ Saigon ra ăn Tết với Sơn, đã từ Phú Cam (nhà Sơn) chạy về trường Trung Học Kiểu Mẫu (toà Khâm Sứ cũ) được dùng như một trại tạm cư để tránh Việt Cộng.
Từ Saigon ra, gia đình tôi cũng từ Chợ Cống tránh VC chạy về đây. TCS đã ở đây cho đến ngày VC rút ra khỏi thành phố. Như vậy trong những ngày này, lúc nào, ở đâu, TCS đã tiếp xúc với bộ đội Bắc Việt, để có nhận xét rằng: “quân đội Bắc Việt Nam vô cùng nghiêm túc, kỷ luật, không hề có chuyện thảm sát?” Vậy thì ai là thủ phạm? Hay mấy nghìn dân Huế cùng nhau tự trói mình, tự nhảy xuống hầm và cùng… tự sát?
Nếu VC gặp một thanh niên đeo kính trắng, trắng trẻo, tóc dài, dáng dấp thư sinh như TCS thì chắc chắn người nhạc sĩ này không thoát cảnh nằm chung với đồng bào trong các hầm chôn tập thể. Thời đó, bọn ở trong rừng ra, biết TCS là ai?
Lời chứng gian này là một điều xúc phạm đến nỗi đau của hàng nhìn gia đình có thân nhân chôn chung trong 22 hầm tập thể. 
Vậy mà Lê Phong Lan dám nói rằng: “Không có nhân chứng nào có thể nói dối trong những cuộc phỏng vấn này.”

Huy Phương

Thursday, May 10, 2018

Cụm Tình Báo VC A.22 Trong Dinh Độc Lập

Định nghĩa
Tình báo, gián điệp là người hoạt động bí mật của phe địch để dọ thám lấy tin tức về tình hình quân sự, chính trị, kinh tế hoặc tác động, phá hoại.


1* GIÁN ĐIỆP NGA Ở HOA KỲ.
Ngày 28-6-2010, ông Michael Forbiarz, phụ tá biện lý Hoa Kỳ phát biểu trước tòa án liên bang ở Manhattan là việc truy tố 10 người sinh sống ở Đông Bắc Hoa Kỳ (HK) chỉ là "Phần nổi của tảng băng" về âm mưu của cơ quan tình báo Nga SVR , hậu thân của KGB, nhằm thu thập tin tức chiến lược về HK.
Thật vậy, ông Oleg Gordievsky, 71 tuổi, một cựu chỉ huy phó đường dây điệp báo KGB ở Luân Đôn, đã đào tỵ năm 1985, cho biết là hiện có từ 40 đến 50 cặp gián điệp hoạt động dưới nhiều cái vỏ bọc khác nhau tại HK.
* Hoạt động của gián điệp Nga
Họ hoạt động theo từng đôi, giả làm vợ chồng, trà trộn vào xã hội HK, làm quen các giới chức có trách nhiệm, tạo sự quen biết lâu dài để thu thập tin tức tình báo chiến lược.
Cụ thể như về chính sách ngoại giao của tổng thống Obama đối với Nga, về lập trường của HK trong việc thương thảo thỏa ước giảm thiểu vũ khí nguyên tử với Nga, START, về Afghanistan, về Iran và chương trình nghiên cứu đầu đạn nguyên tử loại nhỏ dùng để phá hầm ngầm ở sâu dưới mặt đất.
Các điệp viên liên lạc với nhau bằng hệ thống vô tuyến trên máy điện toán xách tay (Mobile Wireless Transmission). Hai bên ngồi gần nhau để chuyền thông điệp từ máy nầy sang máy kia.
Đây là vụ phá ổ gián điệp lớn nhất từ nhiều năm nay của cơ quan FBI.


2* GIÁN ĐIỆP CỘNG SẢN TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Trong chiến tranh, ở miền Nam, ngoài những tên VC nằm vùng, còn có những điệp viên thuộc tình báo chiến lược như Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thuý và Phạm Ngọc Thảo.
2.1. VŨ NGỌC NHẠ
Vũ Ngọc Nhạ là nhân vật then chốt trong vụ án Cụm Tình Báo A.22 làm rung động chính quyền miền Nam năm 1969.
Tên thật là Vũ Xuân Nhã, sinh ngày 30-3-1928 tại tỉnh Thái Bình. Được kết nạp vào đảng CSVN năm 1947. Vũ Ngọc Nhạ còn nhiều cái tên khác nữa như Pière Vũ Ngọc Nhạ (tên Thánh), Vũ Đình Long (Hai Long) bí danh Lê Quang Kép, Thầy Bốn, "Ông Cố Vấn".
2.1.1. Hoạt động
Năm 1955. Xuống tàu di cư vào Nam.
Vũ Ngọc Nhạ cùng 1 số điệp viên khác trà trộn vào đoàn người di cư vào Nam. Nhạ cùng vợ và con gái xuống tàu Hải Quân Pháp cùng hàng triệu người Công giáo di cư vào Nam.
- Làm thư ký đánh máy ở Bộ Công Chánh. Chinh phục được cảm tình của Linh mục Hoàng Quỳnh và trở thành "Người giúp việc" của Giám mục Lê Hữu Từ.
Năm 1958
Tháng 12 năm 1958, Nhạ bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung của Nguyễn Tư Thái, tự Thái Đen, bắt giữ và giam tại trại Tòa Khâm (Huế) để chờ điều tra xác minh. Linh mục Hoàng Quỳnh can thiệp cho nên Nhạ không bị buộc tội.
* Người Giúp Việc của Đức Cha Lê Hữu Từ
Một khuyết điểm lớn của Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung là giam giữ những nghi can gián điệp chung với nhau tại trại Tòa Khâm. Chính ở đó, Vũ Ngọc Nhạ đã móc nối với các "cơ sở" (những cá nhân) tình báo khác, đặc biệt là trùm tình báo VC Mười Hương.
Tạo dựng niềm tin đối với Ngô Đình Cẩn.
Năm 1959
Vũ Ngọc Nhạ làm tờ trình "Bốn Nguy Cơ Đe Doạ Chế Độ" được sự chú ý của Ngô Đình Cẩn và sau đó, của ông Nhu, ông Diệm. Do sự dự đoán chính xác về cuộc đảo chánh 11-11-1960 của tướng Nguyễn Chánh Thi, anh em ông Diệm đã chú ý đến Vũ Ngọc Nhạ.
Nhờ danh nghĩa "Người Giúp Việc" của Đức Cha Lê Hữu Từ mà Nhạ được xử dụng như là Người Liên Lạc giữa anh em Họ Ngô và giới Công Giáo di cư. Nhờ đó, Nhạ thu thập được nhiều tin tức tình báo có giá trị. Từ đó, Nhạ có biệt danh là "Ông Cố Vấn".
* Xây dựng Cụm Tình Báo Chiến Lược A.22
Sau đảo chánh 1-11-1963, thế lực Công giáo phát triển mạnh dưới tay của Linh mục Hoàng Quỳnh.
Cuối năm 1965, sự tranh giành quyền lực trong "nhóm tướng trẻ", do sự giới thiệu của LM Hoàng Quỳnh, Tướng Nguyễn Văn Thiệu đã xử dụng Vũ Ngọc Nhạ trong vai trò liên lạc giữa tướng Thiệu và Khối Công giáo. Nhạ đã khéo léo lợi dụng vai trò đó để tạo ảnh hưởng đến các chính trị gia dân sự và quân sự.
Năm 1967
Sau khi tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng thống, cấp trên nhận thấy cần thiết phải mở rộng mạng lưới tình báo, thành lập Cụm A.22. (A.22 là mật danh của Vũ Ngọc Nhạ) Cụm do Nguyễn Văn Lê làm cụm trưởng, Nhạ làm Cụm Phó trực tiếp phụ trách mạng lưới. Toàn bộ Cụm A.22 được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Đức Trí, chỉ huy phó Tình Báo Quân Sự ở miền Nam.
Bắt đầu, Cụm A.22 "phát triển" thêm Nguyễn Xuân Hoè, Vũ Hữu Ruật đều là những điệp viên mà Nhạ đã bắt liên lạc trong khi bị giam chung tại Tòa Khâm. Sau đó, thu nhận thêm Nguyễn Xuân Đồng và quan trọng nhất là vào đầu năm 1967, bổ sung thêm Lê Hữu Thuý (hay Thắng) mật danh là A.25.
Các điệp viên nầy được giao nhiệm vụ "Chui sâu, leo cao" nắm lấy những chức vụ quan trọng để thu thập thông tin và để tác động vào chính quyền.
Thành công của Cụm A.22 là cài được 1 điệp viên dưới quyền của Lê Hữu Thuý là Huỳnh Văn Trọng làm "Cố Vấn" cho tổng thống Thiệu.
Chính Huỳnh Văn Trọng đã cầm đầu một phái đoàn VNCH sang HK, tiếp xúc, gặp gỡ hàng loạt các tổ chức, các cá nhân trong chính phủ và chính giới HK, để thăm dò thái độ của chính phủ Johnson đối với cuộc chiến ở VN. Huỳnh Văn Trọng thu thập được nhiều tin tức tình báo chiến lược.
* Vụ án Huỳnh Văn Trọng và 42 điệp báo
CIA nhanh chóng phát hiện điều bất thường là sự tập hợp của các cá nhân là những bị can đã bị bắt giam ở Tòa Khâm.
Giữa năm 1968
Hồ sơ các cựu tù nhân ở Tòa Khâm được mở lại. Do tính phức tạp trong ngành điệp báo, CIA phải mất 1 năm mới hoàn tất hồ sơ và chuyển giao cho Tổng Nha Cảnh Sát QG VNCH.
Vào trung tuần tháng 7 năm 1969, một đơn vị đặc biệt có mật danh là S2/B được thành lập để tiến hành bắt giữ hầu hết những người của Cụm A.22.
Toàn bộ điệp viên Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thuý, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hoè, Nguyễn Xuân Đồng, Huỳnh Văn Trọng, và hầu hết những gián điệp khác, kể cả giao liên là bà Cả Nhiễm cũng bị bắt.
Riêng cụm trưởng Nguyễn Văn Lê kịp thời trốn thoát.
Cụm tình báo A.22 bị phá vở hoàn toàn.
Chính quyền Saigon rung động vì 42 gián điệp từ cơ quan đầu nảo là Phủ tổng thống cho đến các cơ quan khác, nhất là 1 "Cố vấn" của tổng thống đã bị bắt.
* Biến vụ án gián điệp thành vụ án chính trị
Đây là vụ án gián điệp lớn nhất lịch sử. Các bị can đều khai, nhất cử nhất động của họ đều là thi hành chỉ thị, là do sự uỷ thác, do lịnh của tổng thống, của các tổng trưởng, nghị sĩ, dân biểu và cả CIA nữa.
Tòa án Quân Sự Mặt Trận Lưu Động Vùng 3 CT bối rối vì không có thể gởi trác đòi những nhân chứng như tổng thống ra hầu tòa để đối chất.
Do không có đủ yếu tố để buộc tội tử hình, cho nên tòa tuyên án:
- Chung thân khổ sai:
Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thuý, Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Xuân Hoè.
- Án từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai cho những bị can còn lại.
Khi quân cảnh dẫn các tù nhân ra xe bít bùng, thì Vũ Ngọc Nhạ quay sang nhóm ký giả ngoại quốc và thân nhân, nói lớn "Tôi gởi lời thăm ông Thiệu".
* Cho rằng CIA dàn cảnh
Một bất ngờ của vụ án là TT Thiệu không tin đó là sự thật mà cho là CIA đã dàn cảnh. Do đó, thời gian Vũ Ngọc Nhạ bị đày ở Côn Đảo thì TT Thiệu đã triệu hồi viên tỉnh trưởng Côn Sơn về Saigon và thay thế vào đó một người thân tín của mình để có điều kiện chăm sóc cho Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng như là những thượng khách. Vì thế, Vũ Ngọc Nhạ đã đánh giá:"Đó là một cuộc dạo chơi trên Thiên Đàng".
* Tiếp tục hoạt động
Đầu năm 1973
Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng được đưa về khám Chí Hòa, Saigon. Trong thời gian ở Chí Hòa, nhờ sự giúp đở của LM Hoàng Quỳnh, Vũ Ngọc Nhạ móc nối, bắt bắt liên lạc với nhóm "Thành Phần Thứ 3" của Dương Văn Minh.
Ngày 23-7-1973
Chính quyền VNCH trao trả Vũ Ngọc Nhạ cho Mặt Trận DTGP/MNVN với danh xưng là "Linh mục Giải Phóng".
Năm 1974
Vũ Ngọc Nhạ được CSBV phong Trung tá QĐNDVN. Tháng 4, 1974, Vũ Ngọc Nhạ trở về Củ Chi, hoạt động bí mật mục đích xây dựng lại Cụm Tình báo chiến lược, móc nối với Thành phần thứ 3 và khối Công giáo .
Ngày 30-4-1975
Vũ Ngọc Nhạ có mặt tại Dinh Độc Lập bên cạnh tướng Dương Văn Minh.
* Bị thất sủng và được tôn vinh
Ngày 30-4-1975 thân phận của Vũ Ngọc Nhạ vẫn chưa được xác nhận.
Năm 1976
Vũ Ngọc Nhạ được điều về Cục 2 Bộ Quốc Phòng với quân hàm Thượng tá.
Năm 1981
Được thăng Đại tá nhưng vẫn còn ngồi chơi xơi nước. Hàng ngày đọc các tin tức báo cáo, tổng hợp lại rồi trình lên thượng cấp, Phạm Văn Đồng, Mai Chí Thọ, Nguyễn Văn Linh.
Năm 1987
Tác giả Hữu Mai xuất bản cuốn tiểu thuyết "Ông Cố Vấn, Hồ Sơ Một Điệp Viên" ca ngợi thành tích tình báo của Vũ Ngọc Nhạ. Công chúng đã biết đến và Nhạ được phong Thiếu Tướng.
Vũ Ngọc Nhạ mất ngày 7-8-2002 tại Saigon, 75 tuổi. Phần mộ của Nhạ nằm chung với các phần mộ của các điệp viên khác như Phạm Xuân Ẩn, Đặng Trần Đức và Phạm Ngọc Thảo.


2.2. PHẠM XUÂN ẨN
* Thân thế Và Hoạt động
Phạm Xuân Ẩn sinh ngày 12-9-1927 tại xã Bình Trước, Biên Hòa, là một thiếu tướng tình báo của QĐNDVN.
Từng là nhà báo. Phóng viên cho Reuters, tạp chí Time, New York Herald Tribune, The Christian Science Monitor.
Theo học trường Collège de Can Tho.
Năm 1948
Tham gia Thanh Niên Tiền Phong và sau đó, làm thơ ký cho hãng dầu lửa Caltex.
Năm 1950
Làm nhân viên Sở Quan Thuế Saigon để thi hành nhiệm vụ là tìm hiểu tình hình vận chuyển hàng hóa, khí tài quân sự từ Pháp sang VN. Đây là lần đầu tiên làm nhiệm vụ tình báo cùng với 14 ngàn gián điệp được cài cắm vào hoạt động.
Năm 1952
Phạm Xuân Ẩn ra Chiến Khu D và đã được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Ủu viên Uỷ Ban Hành Chánh Nam Bộ giao cho nhiệm vụ làm tình báo chiến lược.
Năm 1953
Phạm Xuân Ẩn được Lê Đức Thọ kết nạp vào đảng tại rừng U Minh, Cà Mau.
Năm 1954
Phạm Xuân Ẩn bị gọi nhập ngũ và được trưng dụng ngay vào làm thư ký Phòng Chiến Tranh Tâm Lý Bộ Tổng Hành Dinh Liên Hiệp Pháp tại Camps Aux Mares (Thành Ô Ma) Tại đây, Ẩn được quen biết với Đại tá Edward Landsdale, trưởng phái bộ đặc biệt của Mỹ (SMM), trên thực tế, Landsdale là người chỉ huy CIA tại Đông Dương. cũng là trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (US.MAAG) tại Saigon.
Năm 1955
Theo đề nghị của Phái Bộ Cố Vấn Quân Sự Mỹ, Phạm Xuân Ẩn tham gia soạn thảo tài liệu tham mưu, tổ chức, tác chiến, huấn luyện, hậu cần cho quân đội. Tham gia thành lập cái khung của 6 sư đoàn đầu tiên của QLVNCH, mà nồng cốt là sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ người Việt trong quân đội Pháp trước đó.
Phạm Xuân Ẩn còn được giao nhiệm vụ hợp tác với Mỹ để chọn lựa những sĩ quan trẻ có triển vọng đưa sang Mỹ đào tạo, trong số đó có Nguyễn Văn Thiệu, sau nầy trở thành tổng thống VNCH.
Năm 1957
Tháng 10 năm 1957, Mai Chí Thọ và Trần Quốc Hương (Mười Hương) chỉ đạo cho Phạm Xuân Ẩn qua Mỹ du học ngành báo chí để có cơ hội đi khắp nơi, tiếp cận với những nhân vật có quyền lực nhất.
Năm 1959
Phạm Xuân Ẩn về nước, nhờ những mối quan hệ, Ẩn được bác sĩ Trần Kim Tuyến, giám đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị Và Văn Hóa Xã Hội (Thực chất là cơ quan mật vụ của Phủ tổng thống), biệt phái sang làm việc tại Việt Tấn Xã, phụ trách những phóng viên ngoại quốc làm việc ở đó.
Năm 1960
Từ năm 1960 đến giữa 1964, Phạm Xuân Ẩn làm việc cho hảng thông tấn Reuters. Từ 65 đến 67, Ẩn là người Việt duy nhất và chính thức làm việc cho tuần báo Time. Ngoài ra, còn cộng tác với báo The Christian Science Monitor...
Từ 1959 đến 1975
Với cái vỏ bọc là phóng viên, nhờ quan hệ rộng với các sĩ quan cao cấp, với các nhân viên tình báo, an ninh quân đội và với cả CIA , Ẩn đã thu thập được nhiều tin tức quan trọng từ quân đội, cảnh sát và các cơ quan tình báo.
Những tin tức tình báo chiến lược của Ẩn đã được gởi ra Hà Nội thông qua Trung Ương Cục Miền Nam. Tài liệu sống động và tĩ mỉ khiến cho Võ Nguyên Giáp đã reo lên "Chúng ta đang ở trong Phòng Hành Quân của Hoa Kỳ".
Tổng cộng, Ẩn đã gởi về Hà Nội 498 tài liệu gốc được sao chụp.
Giai Đoạn 1973-1975
Hàng trăm bản văn nguyên bản đã phục vụ "Hạ Quyết Tâm Giải Phóng Miền Nam " của đảng CSVN.
Phạm Xuân Ẩn là nhân vật được chèo kéo của nhiều cơ quan tình báo, kể cả CIA .
Ngày 30-4-1975, Phạm Xuân Ẩn là một trong những nhà báo chứng kiến cảnh xe tăng của VC hút đỗ cổng Dinh Độc Lâp. Từ đó cho đến vài tháng sau, các phóng viên, đồng bào và cả chính quyền mới cũng chưa biết Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên Cộng sản.
Vợ con của Phạm Xuân Ẩn đã di tản sang Hoa Kỳ. Ẩn cũng được lịnh của cấp trên sang HK để tiếp tục hoạt động tình báo. Nhưng Ẩn đã xin ngưng công tác vì đã hoàn thành nhiệm vụ.
Do kế hoạch thay đổi, cho nên mãi 1 năm sau, vợ con của Ẩn mới có thể quay về VN bằng đường vòng Paris, Moskva, Hà Nội, Saigon.
* Sau chiến tranh
Ngày 15-1-1976, trung tá "Trần Văn Trung", tức Phạm Xuân Ẩn, được phong tặng "Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang".
Tháng 8 năm 1978, Ẩn ra Hà Nội dự khóa học tập chính trị 10 tháng vì Ẩn "sống quá lâu trong lòng địch".
Theo Larry Berman thì Ẩn bị nghi kỵ và bị quản chế tại gia. Cấm liên lạc với báo chí ngoại quốc và cấm xuất cảnh, do cách suy nghĩ của Ẩn quá "Mỹ" và do Ẩn đã giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến ra khỏi VN ngày 30-4-1975 .
Năm 1986
Trong 10 năm, luôn luôn có 1 công an làm nhiệm vụ canh gác trước nhà của Phạm Xuân Ẩn.
Năm 1990
Đại tá Phạm Xuân Ẩn được thăng thiếu tướng.
Năm 1997
Chánh phủ VNCS từ chối không cho Ẩn đi Hoa Kỳ để dự hội nghị tại New York mà Ẩn được mời với tư cách là khách mời đặc biệt.
Năm 2002
Phạm Xuân Ẩn về nghỉ hưu.
Con trai lớn của Ẩn là Phạm Xuân Hoàng Ân, đã du học Mỹ, hiện đang làm việc tại Bộ Ngoại Giao ở Hà Nội. Con gái của Ẩn hiện đang sống ở Hoa Kỳ.
Thất Vọng
Trong những năm cuối đời, Phạm Xuân Ẩn cảm thấy rất thất vọng vì dân chúng không được viết tự do. Ẩn trối trăn trước khi chết là, "đừng chôn ông gần những người Cộng Sản".
* Nhận định về Phạm Xuân Ẩn.
Lê Duẩn
Đã biểu dương Phạm Xuân Ẩn coi đó là 1 chiến công có tầm cỡ quốc tế.
Frank Snepp, cựu chuyên viên thẩm vấn CIA , tác giả cuốn sách Decent Interval (Khoảng cách thích đáng) nói:"Phạm Xuân Ẩn đã có được nguồn tin tình báo chiến lược, điều đó rõ ràng, nhựng chưa ai "Dẫn con mèo đi ngược" để thực hiện 1 cuộc xét nghiệm pháp y về các tác hại mà ông đã gây ra, Cơ quan CIA không có gan để làm việc đó." Hết trích.
Murrray Gart, thông tín viên trưởng của báo Time nói "Thằng chó đẻ ấy, tôi muốn giết nó".


2.3. PHẠM NGỌC THẢO
1. Thân thế
Phạm Ngọc Thảo sanh ngày 14-2-1922 tại Sàigon. Cha ông là Phạm Ngọc Thuần, một địa chủ lớn, có quốc tịch Pháp, người Công giáo. Còn có tên là Albert Thảo hoặc 9 Thảo, vì Thảo là con thứ 8 trong gia đình.
Sau khi đậu tú tài, Thảo ra Hà Nội học và tốt nghiệp kỹ sư công chánh.
Thảo tuyên bố bỏ quốc tịch Pháp và tham gia kháng chiến.


2. Hoạt động VC
Sau khi tốt nghiệp trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn, Thảo về nhận nhiệm vụ giao liên ở Phú Yên. Một lần, Thảo đưa 1 cán bộ về Nam Bô. Đó Là Lê Duẩn, người đã có ảnh hưởng lớn về hoạt động tình báo của Thảo sau nầy.
Được bổ làm Tiểu đoàn trưởng TĐ 410, quân khu 9. (Có tài liệu nói là TĐ 404 hoặc 307). Trong thời gian nầy, Thảo hướng dẫn chiến tranh du kích cho Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim, những người sau nầy trở thành tướng lãnh của QLVNCH.
Vợ là Phạm Thị Nhậm, em ruột giáo sư Phạm Thiều, nguyên đại sứ tại Tiệp Khắc.


3. Hoạt động tình báo
Sau Hiệp Định Genève, Lê Duẩn chỉ thị cho Phạm Ngọc Thảo không được tập kết ra Bắc phải ở lại để hình thành Lực lượng thứ 3.
Từ đó, Thảo dạy học ở một số tư thục Saigon.
Phạm Ngọc Thảo đã bị Đại tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, lùng bắt nhiều lần nhưng đều trốn thoát. Sau cùng, Thảo về Vĩnh Long làm nghề dạy học. Tỉnh nầy thuộc địa phận của Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, vốn đã quen biết với gia đình Thảo từ trước. Ngô Đình Thục coi Phạm Ngọc Thảo như con nuôi và bảo lãnh cho vào dạy học ở trường Nguyễn Trường Tộ.
Năm 1956
Phạm Ngọc Thảo được phép đưa vợ con về Saigon và vào làm việc ở Ngân Hàng QG. Rồi được chuyển ngạch sang quân đội với cấp bậc Đại uý "Đồng Hóa".
Năm 1956
Do sự giới thiệu của Huỳnh Văn Lang, Tổng Giám đốc Viện Hối Đoái, Bí thư Liên Kỳ Bộ của đảng Cần Lao, Phạm Ngọc Thảo được cử đi học khóa Nhân Vị ở Vĩnh Long. Và Thảo đã gia nhập đảng Cần Lao.


4. Hoạt động trong Quân Lực VNCH
- Chức vụ Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An Vĩnh Long.
- Tuyên Huấn đảng Cần Lao Nhân Vị.
Thảo biết cách khai thác nghề viết báo của mình và về Binh pháp Tôn Tử. Chỉ trong vòng một năm, Thảo đã viết 20 bài báo nói về chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật lãnh đạo chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo. Những bài báo được giới quân sự chú ý và cả TT Diệm và Ngô Đình Nhu.
Năm 1957
Phạm Ngọc Thảo được chuyển về Phòng Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng thống với cấp bậc thiếu tá. Sau đó, giữ chức Tỉnh Đoàn trưởng Bảo An Bình Dương.
Năm 1960
Phạm Ngọc Thảo tham dự khóa Chỉ Huy Tham Mưu ở Đà Lạt. Giữ chức vụ Thanh Tra Khu Trù Mật.
Năm 1961
Phạm Ngọc Thảo được thăng trung tá, giữ chức Tỉnh trưởng Kiến Hòa để trắc nghiệm chương trình bình định. Thời gian nầy, Kiến Hòa (Bến Tre) trở nên ổn định không còn phục kích hay phá hoại nữa.
Tuy nhiên có nhiều tố cáo Thảo là Cộng sản nằm vùng. Thảo bị ngưng chức tỉnh trưởng Kiến Hòa và đi học khóa Chỉ Huy THam Mưu ở Hoa Kỳ.
Lý do là, Thảo đã thả hơn 2000 tù nhân đã bị giam giữ và liên lạc với bà Nguyễn Thị Định.


5. Tham gia các cuộc đảo chánh

1. Đảo chánh lần thứ nhất, 1963
Tháng 9 năm 1963, bác sĩ Trần Kim Tuyến, nguyên Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị (Thực chất là trùm mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu 1 cuộc đảo chánh Ngô Đình Diệm.
Phạm Ngọc Thảo đã kêu gọi được một số đơn vị như Quân Đoàn 3, Quân Đoàn 4, Biệt Động Quân, Bảo An sẵn sàng tham gia. Nhưng âm mưu bị nghi ngờ. Trần Kim Tuyến bị đưa đi làm Tổng Lãnh Sự ở Ai Cập.
Sau ngày đảo chánh 1-11-1963 , Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đỗ. Phạm Ngọc Thảo thăng chức Đại tá làm Tuỳ Viên báo chí trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Một thời gian sau, được cử làm Tuỳ viên Văn hóa tại Tòa đại sứ VNCH ở Hoa Kỳ.
2. Đảo chánh lần thứ hai năm 1965
Đầu năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị gọi về nước vì Nguyễn Khánh muốn bắt Thảo. Vì thế, khi về đến phi trường Tân Sơn Nhất, Thảo đào nhiệm, bỏ trốn và bí mật liên lạc với các lực lượng đối lập để tổ chức đảo chánh.
Đảo chánh với lý do rất quan trọng mà Thảo nắm được là Nguyễn Khánh và Hoa Kỳ thỏa thuận sẽ ném bom xuống miền Bắc vào ngày 20-2-1965 . Vì vậy phải đảo chánh lật Nguyễn Khánh vào ngày 19-2-1965 .
Ngày 19-2-1965
Phạm Ngọc Thảo và Tướng Lâm Văn Phát đem quân và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh Saigon, bến Bạch Đằng và phi trường Tân Sơn Nhất. Tướng Nguyễn Khánh đào thoát bằng máy bay ra Vủng Tàu.
Ngày 20-2-1965
Hội Đồng các tướng lãnh họp tại Biên Hòa các tướng cử Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống lại đảo chánh. Nguyễn Chánh Thi ra lịnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ.
Ngày 21-2-1965
Các tướng tiếp tục họp tại Biên Hòa quyết định giải nhiệm Nguyễn Khánh và cử tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư Lệnh QLVNCH.
Ngày 22-2-1965
Quốc trưởng Phan Khắc Sửu ký sắc lịnh bổ nhiệm tướng Nguyễn Khánh làm Đại sứ lưu động. (Một hình thức trục xuất ra khỏi nước)
Ngày 25-2-1965
Nguyễn Khánh rời Việt Nam. Phạm Ngọc Thảo bỏ trốn.


6* Bị bắt và qua đời
Ngày 11-6-1965
Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát tuyên bố trả quyền lãnh đạo quốc gia lại cho Quân đội.
Ngày 14-6-1965
Uỷ Ban Lãnh Đạo Quốc Gia được thành lập do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch.
Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật. Thảo cho xuất bản tờ báo Việt Tiến mỗi ngày phát hành 50,000 tờ, tuyên truyền tinh thần yêu nước chống Mỹ và Thiệu.
Phạm Ngọc Thảo có 1 hàng rào bảo vệ rộng lớn từ các Xứ Đạo Biên Hòa, Hố Nai, Thủ Đức, Saigon. Có nhiều linh mục giúp đở in ấn và phát hành. Chính quyền Thiệu-Kỳ kết án tử hình và treo giải thưởng 3 triệu đồng cho ai bắt được Thảo.
Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) kể lại "Tôi thấy Thảo gặp khó khăn nên đi tìm anh để đưa về chiến khu, nhưng anh bảo vẫn còn khả năng đảo chánh để ngăn chận việc đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam". (Võ Văn Kiệt)
Lâm Văn Phát ra trình diện và chỉ bị cách chức.
Phạm Ngọc Thảo phải trốn nhiều nơi, cuối cùng bị bắt tại Đan Viện Phước Lý, xã Vĩnh Thanh, quận Nhơn Trạch, Biên Hòa.
Lúc 3 giờ sáng ngày 16-7-1965, Thảo vừa ra khỏi Đan Viện Phước Lý thì bị An ninh Quân Đội phục kích bắt và đưa về 1 con suối nhỏ gần Biên Hòa để thủ tiêu. Tuy nhiên, Thảo không chết, chỉ bị ngất xĩu vì đạn trúng vào càm. Khi tĩnh dậy, Thảo lê lết về một nhà thờ và được Linh mục Cường, Cha Tuyên Uý của Dòng Nữ Tu Đa Minh cứu chữa.
Và Thảo bị phát giác, bị đưa về Cục An Ninh QĐ đường Nguyễn Bĩnh Khiêm. Thảo bị tra tấn cho đến chết vào đêm 17-7-1965. 43 tuổi.
Theo Larry Berman trong cuốn "Perfect Spy" thì TT Thiệu ra lịnh tra tấn và hành hạ Thảo cho thật đau đớn bằng cách dùng 1 cái thòng lọng bằng da, buộc quanh cổ và 1 cái khác thì siết mạnh nơi tinh hoàn. Cũng có tin nói rằng Đại uý Hùng Sùi bóp dái Thảo cho đến chết.
Phạm Ngọc Thảo có 7 con và vợ Thảo đi dạy hoc. Tất cả hiện đang sinh sống ở Hoa Kỳ. Có người con là bác sĩ ở Quận Cam, Cali.
Phạm Ngọc Thảo là 1 điệp viên đơn tuyến. Không có thượng cấp và thuộc cấp. Không thu thập tin tức mà chỉ tác động vào chính quyền.
Nhà nước CSVN truy tặng Thảo danh hiệu Liệt sĩ và quân hàm Đại tá QĐNDVN.
Cũng có nguồn tin cho rằng Phạm Ngọc Thảo là 1 gián điệp nhị trùng, nghĩa là làm việc cho CIA nữa.
Trúc Giang Minnesota

ÔNG CỐ VẤN : HUỲNH VĂN TRỌNG LÀ AI ?

Kính gởi Anh Năm,
(để kỷ niệm một thời tận tụy cho Tổ Quốc)

 BBT: Từ đầu năm 1970, chúng ta được nghe một sư kiện hết sức quan trọng và thích thú: Cố vấn của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, ông Huỳnh văn Trọng đã bị bắt vì tội làm gián điệp cho Cộng sản Bắc Việt. Cùng bị bắt với ông, còn có tên Vũ ngọc Nhạ và hơn 20 đồng bọn khác, đang hoạt động nội tuyến trong bộ máy công quyền của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
 Ngoại trừ những người trong cuộc, đã đóng góp công sức trong việc phá vỡ tổ chức này, còn những người khác chỉ nghe một cách mơ hồ, từ đó nãy sinh biết bao nghi vấn, mà ở một đất nước đang có chiến tranh, những nghi vấn thường được khai thác, thêu dệt bởi những thành phần cầu an, phản chiến, kể cả kẻ thù là bọn cộng sản nằm vùng. . .
 Bài viết này ra đời sau bao nhiêu đắn đo của tác giả cùng với những yêu cầu của BBT, vì chúng tôi thấy đã quá trể để nói lên những sự thật mà chúng ta cần biết.
 Chúng ta đã nhận diện kẻ thù, chúng ta không thể không có những câu hỏi tiếp theo: “Số phận của Huỳnh Văn Trọng sau tháng 4 năm 1975 ra sao ?  còn sống hay đã chết? và . . .”
 Chúng tôi xin trả đất lại cho tác giả . . .

- & -
 I.- NỘI DUNG SỰ VIỆC :
 Trong Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, có một đơn vị chuyên đảm trách nhiêm vụ An ninh và Tình báo, đó là ngành Đặc Biệt. Phương tiện chánh yếu để thu lượm tin tức, từ bạn cho tới kẻ thù, ngành Đặc Biệt đã xử dụng những mạng lưới mật báo trên khắp mọi địa bàn, mọi tổ chức, từ trong Nam ra tới ngoài Bắc, cái nôi của bọn Cộng sản Việt Nam. . .
 Vào trung tuần tháng 6 năm 1968, theo báo cáo của Tình báo viên Z.23, sau nhiều lần đến sửa nhà cho tên Thúy tại hẻm không số đường Bạch Đằng, Gia định, đương sự đã được tên này tin tưởng và tiết lộ nhiều tin tức liên quan đến các hoạt động của Việt cộng tại miền Nam Việt Nam. Y đặc biệt đề cao sự giúp đở của hai nước đàn anh Liên sô và Trung cộng cho Cộng sản Bắc Việt và hết sức ca ngợi những chiến tích của bọn Cộng sản xâm lược tại miền Nam. Y còn khoát lát khoe khoang là hiện nay cách mạng đã có mặt hầu hết mọi nơi trong các phủ bộ chánh yếu của Việt Nam Cộng Hòa, do đó, mọi tin tức dù bí mật đến đâu, bọn chúng cũng đều nắm vững và kịp thời báo cáo về cấp trên để có biện pháp đối phó.
 II.- KẾT QUẢ ĐIỀU TRA:
 Qua báo cáo sự việc, S2B nhận thấy đây có thể là một đầu mối khả tín, vì qua những lần thử thách trước đây, Tình Báo Viên (TBV) thường cung cấp nhiều tin tức có giá trị cao, nên đã bí mật mở cuộc điều tra, để tìm hiểu về lai lịch của tên Thúy, cùng tất cả những dữ kiện liên hệ tới thân nhân, bạn bè, nghề nghiệp v.v. . .
 Kết quả điều tra sơ khởi, ghi nhận tên thật của y là Lê hữu Thúy, cư ngụ tại . . . đường Bạch Đằng, Gia Định, hiện làm việc tại Bộ Chiêu Hồi, với chức vụ là Đổng Lý Văn phòng. Qua toán giám thị báo cáo, hàng ngày y đi làm bằng chiếc xe Mobylette tự động màu xanh xám, loại xe mà các cán bộ Tình báo Cộng sản thường dùng theo kinh nghiệm đánh phá các tổ chức tình báo chiến lược trước đây mà S2B được biết. Phải chăng Lê hữu Thúy không thoát khỏi thông lệ này. Theo tiền tích ghi nhận, tên Thúy trước đây, thời đệ nhất Cộng Hòa, đã bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt miền Trung bắt giữ vì tội hoạt động gián điệp, dưới quyền điều khiển của tên đại tá Lê Câu, Cục trưởng Cục Tình Báo miền Nam của Cộng sản.
 Tưởng cũng cần nói thêm, vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung, phối hợp cùng Ty Công An Huế, đã bắt trọn đám gián điệp của Cộng sản. Các tên như Lê hữu Thúy, Vũ ngọc Nhạ, Vũ hữu Ruật, Huỳnh văn Trọng. . . bị bắt tại Huế, còn tên đầu sỏ Lê Câu, cấp bậc Đại tá, bị bắt tại Saigon. Sau đó, bọn này bị đưa ra tòa, và đang thụ hình tại Côn đảo thì cuộc đảo chánh 1/11/1963 xảy ra. Do sự cứu xét của Hội Đồng Cách Mạng, do Tướng Dương Văn Minh cầm đầu, tất cả số này và những tù Cộng sản khác đều được trả tự do, ngược lại, những người có công trong việc truy bắt bọn Cộng sản, không chỉ riêng vụ này, đều bị bắt vô tù, kể cả Ông Tổng Giám Đốc Cảnh Sát và Công An thời đó là Đại Tá Nguyễn văn Y.
 Với kết quả ghi nhận, dù ngắn gọn, nhưng cũng đủ cho S2B đánh giá, có thể tên Thúy đang tái hoạt động cho Cộng sản. Nhưng để xác định về tổ chức, thành phần nhân sự . . . của nhóm này, còn cần có nhiều thời gian điều tra, theo dõi tiếp. Một toán giám thị đặc biệt, gồm toàn những cán bộ giỏi của S2B đã được bố trí giám sát chặt chẽ mọi hành tung thường nhật của tên này 24/24 giờ. Đồng thời lợi dụng ưu thế xâm nhập, nhờ tình báo viên Z.23 đã được tên Thúy tin tưởng, giao sửa những hư hỏng vặt vảnh trong nhà, S2B đã hướng dẫn TBV Z.23 bí mật lắp đặt một hệ thống nghe lén để ghi tất cả nội dung các cuộc tiếp xúc của mục tiêu với những phần tử liên hệ trong tổ chức.
 Sau một thời gian theo dõi, S2B đã phát hiện được một mục tiêu rất đáng quan tâm. Ngày . . . tháng . . . năm 1969, mục tiêu đến tiếp xúc với tên Thúy vào lúc 8 giờ tối, cũng xử dụng chiếc xe Mobylette màu xanh xám. Hai bên đã bàn thảo nhiều về tình hình chính trị Thế Giới, trong đó có sự thắng thế của khối Cộng sản Quốc tế, cầm đầu là Liên Sô, thế mạnh của Cộng sản Việt Nam trong khối thứ 3, những chiến thắng dồn dập của Việt cộng tại miền Nam v.v. . . Trong đó có đề cập tới ưu thế của Cộng sản Bắc Việt trong bàn Hội nghị sắp diễn ra tại Paris vào đầu nam 1969. Rõ rệt đây là sinh hoạt nội bộ của cấp cơ sở và tên lạ mặt này chắc chắn là một cấp chỉ huy của Lê hữu Thúy. Vậy y là ai ? Đang làm gì, ở đâu ?
 Kết quả điều tra sau đó, cho biết kẻ lạ mặt này tên là Vũ ngọc Nhạ, với tiền tích hoạt động như sau :
 - Trước đây, y nguyên là Tổ trưởng điệp báo Cộng sản, dưới quyền điều khiển của tên Lê Câu, Đại tá Cục Trưởng cục Tình báo miền Nam, đã bị Đoàn Công tác Miền Trung và Ty Công An Tỉnh Thừa Thiên bắt giữ thời Đệ nhất Cộng Hòa và được phóng thích sau cuộc đảo chánh 1/11/1963. Sau đó, tên này tiếp tục sống dưới danh nghĩa của một nhà giáo và được che chở với chiêu bài của một tín đồ ngoan đạo, y tìm cách xâm nhập vào sinh hoạt của các Linh Mục có thế lực và có quá trình chống cộng tích cực để dễ dàng hoạt động như Linh Mục Hoàng Quỳnh ở giáo xứ Bình An (Quận 7) , Linh Mục Nhuận (?)ở nhà thờ Tân Định, là Cha đở đầu của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu.v.v. . . Nhờ giả vờ ăn nói dịu dàng, lễ phép, lại hiểu biết nhiều về tình hình chính trị quốc tế và quốc nội. . . nên được hầu hết các Cha thương mến. Các kế hoạch y đệ trình để “đánh phá” Cộng sản rất được các Linh Mục này chú ý như kế hoạch xử dụng những cựu kháng chiến, những hồi chánh viên có khả năng và kinh nghiệm. . . Mục đích của y là để Cộng sản có dịp cài người của chúng vào sâu trong chánh quyền của ta qua con đường trá hồi chánh sau này. Hầu hết các đề nghị của y đều được các Cha ủng hộ mạnh mẽ và đã lần lượt giới thiệu lên cho Tổng Thống. (Nhờ vậy, sau 30/4/1975 y mới có dịp huênh hoang, tự xưng mình là Cố vấn của Tổng Thống VNCH). Sau đó, mọi hoạt động của bọn này đã được từ từ bao vây và xiết chặt.
 Ngày . . . tháng . . . năm 1969, toán theo dõi phát hiện, mục tiêu xuất hiện từ nhà tại Hàng Xanh Gia Định - dùng xe Mobylette di chuyển về hướng Đại lộ Thống Nhất, chạy thẳng về Dinh Độc Lập, đến cổng sau gởi xe và đi vào bên trong. Độ nửa giờ sau thì trở ra, lấy xe và đi trở về nhà.
 Y đã gặp ai trong đó? Tổ chức này quả có phần lợi hại và là một mục tiêu hết sức hấp dẫn của Khối Đặc Biệt. Có phải chăng chính tên Vũ ngọc Nhạ này là người mà Lê hữu Thúy đã tiết lộ với TBV/ Z. 23 là tổ chức của y đã cài được người vào tận dinh Tổng Thống ? Trong chiều hướng đó, Khối Đặc Biệt nhất định phải vén cái màn bí mật này càng sớm càng tốt.
 Chỉ một thời gian ngắn sau đó, toán theo dõi ưu tú của S2B đã phát hiện được một sự kiện quan trọng :
 Ngày . . . tháng . . . năm 1969, mục tiêu xuất hiện tại nhà, cũng dùng xe Mobylette đi về hướng Saigon. Khi đến góc đại lộ Nguyễn Huệ và Lê Lợi, y ngừng lại, gởi xe và vào nhà hàng Brodard ngồi uống nước và chờ đợi. Độ 10 phút sau, một người đàn ông trạc chừng 60 tuổi, ăn mặc khá lịch sự xuất hiện, đến bắt tay y, rồi ngồi xuống cạnh bên, tay cầm theo một bao thơ lớn màu vàng, khá nặng, dường như có một quyển sách bên trong ( theo báo cáo của toán giám thị ). Hai bên tiếp xúc nhau khoảng nửa giờ thì người đến sau đứng dậy giả từ và để lại bì thơ trên bàn cho tên Nhạ.
 Toán giám thị theo dõi sát tên này. Đương sự đến chiếc xe Citroen loại 2 ngựa màu xám mang bảng số EB . . . đậu bên vệ đường, mở máy, di chuyển về đường Tự Do, đến Nhà Thờ Đức Bà thì chạy về hướng Nguyễn Du, sau đó quẹo về đường Huyền Trân Công Chúa, tức ngả sau Dinh Độc Lập và chạy thẳng vào bên trong.
 Không còn nghi ngờ gì nữa. Mục tiêu này chắc chắn phải có sự liên hệ mật thiết với Vũ ngọc Nhạ. Dồn hết mọi nổ lực, các chiến sĩ vô danh Cảnh Sát Quốc Gia quyết định phải biết cho kỳ được nơi cư ngụ của mục tiêu quan trọng này. Đến 8:30 giờ tối, mục tiêu trở ra, hướng về đường Tự Do, đến số . . . thì dừng lại, tắt máy xe Citroen, lên lầu, đến phòng số . . . thì mở cửa vào trong. Đến khoảng 10 giờ thì tắt đèn. Đây là nơi cư ngụ của mục tiêu.
 Sưu tra tờ khai gia đình, ghi nhận chủ hộ có tên là Nguyễn văn Tư. Kết quả sưu tra văn khố, đương sự vô danh. Qua cách phục sức, luôn luôn ăn mặc chỉnh tề, lúc nào cũng thắt cà- vạt, thỉnh thoảng lại mặc áo Veston đi làm, chứng tỏ mục tiêu không phải là một “nhân vật tầm thường”, ít ra cũng thuộc hàng Chủ sự hay Chánh Sở gì đó.
 Khối Đặc Biệt đã bí mật chụp ảnh tên này và qua ảnh phóng đại, Trung tá Nguyễn Mâu, Trưởng Khối Đặc Biệt, xác nhận đây chính là tên Huỳnh văn Trọng, Cố vấn của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, mà có lần, Trung tá Nguyễn Mâu đã được gặp nhân dịp vào dinh Độc Lập yết kiến Tổng Thống Thiệu.
 Kết quả sưu tra hồ sơ Đặc Biệt, ghi nhận trước đây Huỳnh văn Trọng có vào khu theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Sau bỏ ngũ trở về thành hoạt động trong các đảng phái chính trị tại miền Nam.
 Với một quá khứ mù mờ nhu vậy, tại sao Huỳnh văn Trọng lại lọt được vào dinh Độc lập và làm đến chức Cố vấn cho Tổng Thống? Lẽ ra, với chức vụ quan trong như vậy, y phải được điều tra thật cẩn thận trước khi được tin dùng. Vấn đề điều chuẩn an ninh nhất định không được bỏ qua. Đàng này rất tiếc nhưng không quá muộn, vì dù sao đương sự cũng đang được lọt vào “đôi mắt xanh” của anh em Cảnh Sát Đặc Biệt rồi!


 III.- BIỆN PHÁP DỐI PHÓ:
 Nổ lực tiếp tục điều tra theo dõi 3 mục tiêu đầu sỏ này, S2B ngày càng thu thập them nhiều bằng cớ quan trọng khác, xác nhận cả ba đang cùng nằm trong một tổ chức Tình báo Chiến lược, đã ăn sâu gốc rễ vào dinh Độc Lập. Chúng có cả hộp thư an toàn, hệ thống giao liên vào mật khu và lịch trình tiếp xúc được ấn định trước.
 Nhưng công tác còn cần được nuôi dưỡng thêm một thời gian nữa, vì dù sao, đây chỉ mới là giai đoạn đầu của mục tiêu xâm nhập được đề ra, là bọn đầu não của chúng, Phòng Tình Báo Chiến Lược, thuộc Trung Ương Cục miền Nam, trực thuộc Cục Nghiên Cứu Bắc Việt. Do đó, công tác mang ngụy danh “Đống Đa” được thành hình.
 Để thực hiện kế hoạch này, Khối Đặc Biệt lần lượt làm những việc sau đây:
 - Thứ nhất: Thẩm tra lại sự trung thực của TBV/ Z 23, qua máy kiểm tra nói dối. Kết quả xác nhận những báo cáo của TBV/ Z 23 từ trước đến nay đều ở mức độ cao, khả tín.
 - thứ hai: Báo trình kết quả điều tra sơ khởi lên Thủ Tướng Chính Phủ để có biện pháp. Sau đó, Thủ Tướng Trần thiện Khiêm đã đích thân đến Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia (lúc chưa thành Bộ Tư Lệnh) trực tiếp gặp TBV/ Z 23 để hỏi chi tiết nội vụ. Trong tinh thần tiếp xúc cởi mở, trước sự chứng kiến của Chuẩn Tướng Trần văn Hai, Tổng Giám Đốc CSQG lúc bấy giờ và Trung Tá Nguyễn Mâu, Trưởng Khối Đặc Biệt, TBV/ Z 23 đã kể lại tất cả nội vụ. Thủ Tướng lắng nghe mọi chi tiết báo cáo của TBV. Sau cùng, Thủ Tướng Chính Phủ đã đưa ra 2 đề nghị để khích lệ, tùy TBV lựa chọn:
 1/ Sau khi phá vở công tác có kết quả, TBV sẽ được tuyển chọn chánh thức vào làm nhân viên CSQG, ngành Đặc biệt, với ngạch Phó thẩm Sát Viên tập sự (tương đương với Trung sĩ sau này)
 2/ Tình báo viên sẽ được đi du lịch Hoa Kỳ 10 ngày, mọi chi phí Chính Phủ sẽ đài thọ.
 Hai điều kiện dưa ra thật hấp dẫn, nhưng TBV/ Z 23 chẩm rải thưa với Thủ Tướng: “Kính thưa bác, cháu vốn dĩ ít học, không biết chút gì về ngoại ngữ nên không dám đi Mỹ một mình. Sau này nếu cháu làm việc có kết quả, cháu chỉ xin bác cho cháu được thật sự vào làm việc trong ngành Cảnh Sát để có cơ hội tiếp tục phục vụ đất nước, như vậy là cháu mãn nguyện lắm rồi, không dám mơ ước gì hơn nữa”.
 Bằng giọng nói nhỏ nhẹ, Thủ Tướng nói: “Bác hứa với cháu là nếu cháu làm việc có kết quả, Bác sẽ cho cháu được nhập ngạch thẳng vào ngành CSQG như cháu mong muốn. Chuẩn Tướng Trần văn Hai và Trung Tá Nguyễn Mâu sẽ đích thân làm việc này giúp cháu, cháu cứ yên tâm và làm việc cho tốt”.
 (Tưởng cũng cần nói rõ là một nhân viên Cảnh Sát khi được tuyển dụng vào ngành CSQG, cấp bậc khởi đầu là Cảnh Sát Viên Phù động Đồng Hóa Công Nhật. Với ngạch này, ít nhất là 5 năm sau, nếu chịu khó làm việc, tạo được thành tích đáng kể mới hy vọng được nhập ngạch thực thụ với cấp bậc Phó Thẩm Sát Viên tập sự. Z 23 đã được Thủ Tướng hứa cho nhập ngạch ngay sau khi công tác phá vở có kết quả, quả thực là một tưởng thưởng khá đặc biệt, ít ai được).
 Sau buổi tiếp xúc, gặp gở TBV/ Z 23, Thủ Tướng đã quyết định trình nội vụ lên Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu. Đây là một sự kiện lịch sử có một không hai trong quá trình hoạt động Tình báo của Khối Đặc Biệt. Thuyết trình viên cho Tổng Thống là Trung Tá Nguyễn Mâu, Trưởng Khối Đặc Biệt.
 Tổng Thống hết sức chú ý, lắng nghe từng chi tiết một. Sắc diện biến đổi từng lúc tùy theo nội dung sự việc mà Trung Tá Mâu trình bày. Sự xúc động nổi lên rõ rệt trên nét mặt đầy âu lo của Tổng Thống: một kẻ địch nguy hiểm đang nằm cạnh mình bấy lâu nay mà mình không hay biết!
 Trải qua gần 3 tiếng đồng hồ căng thẳng đến cực độ, Trung Tá Trưởng Khối đã đi đến kết luận: “Đây là một tổ chức Tình Báo Chiến Lược của Cộng Sản Bắc Việt, đã xâm nhập sâu vào cơ cấu chánh quyền ta qua sự điều khiển trực tiếp của Cục Nghiên Cứu miền Bắc. Tổ chức này hiện nằm trong tay của ta, nhưng Khối Đặc Biệt còn cần thêm một thời gian nữa để thu thập đầy đủ tài liệu và chứng cớ cũng như toàn bộ nhân sự của tổ chức để đánh phá. Đây quả là một thử thách cam go cho cả Khối Đặc Biệt và Tổng Thống, vì nó đòi hỏi một sự cẩn trọng và đấu trí hết sức cam go, chỉ một sơ hở nhỏ cũng đủ gây nghi ngờ cho những tên điệp báo cáo già này và sẽ đưa đến sự đổ vỡ toàn bộ cho công tác”.
 Tổng thống đã hết sức đắn đo suy nghĩ. Các cán bộ Cảnh Sát Dặc Biệt của Trung Tá Mâu có đủ khả năng cán đáng công tác lớn lao và nguy hiểm này hay kgông? Kế hoạch xâm nhập có bảo đảm được an toàn cá nhân cho Tổng Thống? Nỗi lo âu đang canh cánh trong lòng Tổng Thống. Ông muốn làm sao Khối Đặc Biệt sớm đánh phá tổ điệp báo nguy hiểm này.
 Thấu hiểu nỗi âu lo của Tổng Thống, qua những giọt mồ hôi luôn rịn ra trên trán, Trung Tá Mâu tuyên hứa với Tổng Thống sẽ làm hết sức mình để chấm dứt công tác trong một thời gian ngắn nhất. Nhưng việc trước tiên mà Khối Đặc Biệt mong mõi, là Tổng Thống tiếp tục duy trì mọi liên hệ với hai tên Vũ ngọc Nhạ và Huỳnh văn Trọng một cách bình thường. Tổng Thống không nên hạn chế việc ra vào Dinh Độc Lập của hai tên này, nhất là tên Huỳnh văn Trọng. Hãy để cho y vẫn tiếp tục vai trò “cố vấn” của mình bằng cách trao cho y những tài liệu, kế hoạch không có giá trị, để y mặc tình báo cáo về cho bọn Cộng sản Bắc Việt để chúng nghiên cứu khai thác.
 Kết quả vở bi hài kịch này đã được trình diễn khá xuất sắc. Trải dài gần một năm nuôi dưỡng, Huỳnh văn Trọng không hề mải mai nghi ngờ gì về vai trò Cố Vấn “bù nhìn” của mình. Tài liệu vẫn được y chuyển về mật khu tới tấp. Đối với Vũ ngọc Nhạ, mỗi lần đi câu hay đi săn về, Tổng Thống không quên gởi biếu cho y, khi thì một con cá (mua ngoài chợ), khi thì một miếng thịt nai (ở Long Thành), khiến y lúc nào cũng vênh vênh tự đắc. Y có biết đâu, sau lưng của y, lúc nào cũng có một toán theo dõi ngày đêm, bám sát mọi hành vi của y. Nhất nhất mọi hoạt động của y đều được bí mật thu hình. Nhờ vậy, sau khi đánh phá, cho y xem qua mọi sinh hoạt hàng ngày của mình qua màn ảnh TV, y gần như chết lặng không chối được nửa lời.


 IV/- PHÁ VỞ:
 Sau khi nắm vững được toàn bộ tổ chức điệp báo lợi hại này, nhận thấy việc nuôi dưỡng không còn hữu ích nữa, Khối Đặc Biệt đã đệ trình kế hoạch phá vỡ vào ngày N. nào đó thuận lợi nhất.
 Ngày N. đã đến. Khi toán giám thị phát hiện vào lúc 15 giờ ngày. . . tháng . . . năm 1970, tên Vũ ngọc Nhạ xuất hiện từ nhà ở đường Hàng Xanh- Gia Đinh- di chuyển về hướng Saigon, chạy thẳng về Ngã Sáu Chợ Lớn, đến góc đường Nguyễn tri Phương Minh Mạng thì dừng lại, dẫn xe lên lề và đứng bên đường chờ đợi. Độ 10 phút sau, một nữ giao liên mà Khối Đặc Biệt đã phát hiện trước trong lúc giám thị công tác này, xuất hiện. Tay y thị xách một cái túi nhỏ đi ngang qua mặt tên Nhạ. Sau khi nhận nhau, tên Nhạ lẵng lặng đi theo sau. Đi được một đoạn ngắn, nhìn kỹ trước sau thấy không có gì khả nghi, cả hai bắt đầu trao đổi tài liệu. Vũ ngọc Nhạ nhận cái túi nhỏ từ tay giao liên, đồng thời trao lại cho y thị một gói nhỏ bằng bao thuốc lá, và chia tay. Tên nữ giao liên đi thẳng về phía chợ An Đông, còn Vũ ngọc Nhạ quay trở lại lấy xe và chạy thẳng về nhà.
 Không bỏ sót một chi tiết nhỏ nhặt hoặc một cá nhân nào, toán giám thị thứ hai tiếp tục bám sát nữ giao liên và khi đến một đoạn đường vắng vẻ nhất, bí mật mời y thị lên xe, chạy về cơ quan S2B với đầy đủ tang chứng. Cái hộp nhỏ mà Vũ ngọc Nhạ vừa trao cho y thị, bên trong đựng 3 ống thuốc đựng đầy “vi phim” sao chụp tài liệu “kế hoạch kinh tế hậu chiến” của Giáo sư Vũ Quốc Thúc. Tài liệu này đã được Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu giao cho Huỳnh văn Trọng một tháng trước đó theo đề nghị của Khối Đặc Biệt.
 Xúc tiến kế hoạch đánh phá, ngay trong ngày hôm đó, tại dinh Độc Lập, Tổng Thống đã mở một bửa tiệc nhỏ để khoãn đãi “Ông Cố vấn” với lời cảm tạ sau cùng trước khi chấm dứt nhiệm vụ của Huỳnh văn Trọng.
Ngay đêm đó, khi vừa về đến nhà thì tên Trọng đã bị bắt giữ cùng lúc với Vũ ngọc Nhạ, Lê hữu Thúy và cả bọn, khoảng 25 tên.
 Cần nói thêm một điều, việc bắt giữ bọn này không đúng với “sách vở”, là ngay khi bắt tên nữ giao liên là phải bắt ngay Vũ ngọc Nhạ ngay chiều hôm đó, nhưng S2B không làm việc này vì 2 lý do :
 - Phải chờ Tổng Thống ký quyết định bãi chức “Cố vấn” của Huỳnh văn Trọng xong mới bắt luôn Nhạ và tất cả đồng bọn.
 - Dù S2B luôn theo sát bọn này, nhưng vẫn đề phòng trong tổ chức của chúng có nhóm phản theo dõi đi theo để bảo vệ cuộc tiếp xúc, trao đổi với nữ giao liên, nếu bắt Vũ ngọc Nhạ giữa chốn thanh thiên bạch nhựt sẽ là điều hết sức nguy hiểm, vì đồng bọn có thể được báo động và bôn tẩu, làm cuộc phá vở công tác không đem lại kết quả như mong muốn.
 Theo lời khai của Vũ ngọc Nhạ, chiếc túi nhỏ mà y đã nhận của nữ giao liên lúc ban chiều, trong có chứa một chỉ thị mật của căn cứ gởi cho đương sự: bức thư này được viết bằng một loại mực kín chỉ có thể mã hóa bằng một loại hóa chất đặc biệt do Liên Xô cung cấp. Chữ chỉ hiện lên và biến mất sau đó 15 phút.
 Tại hộp thơ đường Trần quang Khải, Đa Kao, ngân viên đã tịch thu được một số vi phim, đã vào sẵn trong các ống thuốc tây, nôi dung chụp lại các tài liệu mà Huỳnh văn Trọng, Lê hữu Thúy đã đánh cắp được từ Phủ Tổng Thống và Bộ Chiêu Hồi, trong đó có những kế hoạch vô giá trị mà Tổng Thống Thiệu đã đưa cho Huỳnh văn Trọng trước đây mà chúng chưa kịp chuyển về căn cứ.
 Trước những chứng cớ rành rành như vậy, cả 3 tên đầu sỏ đều thành khẩn nhận tội. Riêng Vũ ngọc Nhạ tỏ ra cởi mở và đã tâm sự với người viết bài này, là y không bao giờ nghĩ rằng tổ chứa của y có thể bị phát hiện, vì Tổng Thống Thiệu đối xử với y như một người thân trong gia đình. Y có ngờ đâu, đó chẳng qua cũng chỉ là kế hoạch của Khối Đặc Biệt đề ra nhằm ru ngủ y mà thôi. Sau này nằm trong tù chắc y có dịp nghiền ngẫm và thấm thía lắm . . . Y còn khoe khoang là có lần đã được Tổng Thống Thiệu ngỏ ý mời y làm Cố vấn cho Tổng Thống, nhưng y từ chối, vì y biết rằng, nếu y công khai chường mặt, sớm muộn gì cũng bị ngành an ninh của ta lột mặt nạ. Do đó y đã giới thiệu Huỳnh văn Trọng với Tổng Thống và y chỉ đứng trong bóng tối điều khiển sẽ có lợi hơn.
 Thành thật mà nói, trong giai đoạn đầu kế hoạch xâm nhập của tổ chức này khá thành công, nhưng may mắn nhờ ta lật tẩy sớm nên chúng chưa làm được việc gì quan trọng. Hầu hết những tài liệu chúng thu thập được chẳng qua chỉ là một mớ giấy lộn mà ta đã chọn để đưa cho chúng làm tin để bắt cả bọn mà thôi.
 Trong suốt cuộc điều tra theo dõi, S2.B đã theo dấu từng tên một, để từ đó có thể phăng lần ra những đồng bọn và manh mối khác. Nhưng trong bài này, chúng tôi chỉ đề cập tới những tên quan trọng có liên hệ mật thiết với Huỳnh văn Trọng, ông Cố Vấn, mà thôi.
 Cuộc đấu trí đầy hứng thú đã chấm dứt, kèm theo gần 25 tên cán bộ và cơ sở của Tổ Điệp Báo này hoàn toàn bị vô hiệu hóa. Trong đó có 3 tên đầu sỏ : Vũ ngọc Nhạ, Huỳnh văn Trọng và Lê hữu Thúy với 3 bản án chung thân, nằm ngoài Côn Đảo.

Phan Nhân