H21.
Đáng lẽ tôi không muốn nhắc lại các
vết thương lòng đã xảy ra từ lâu, vì khơi lại chỉ làm lòng tôi đau xót,
nhức nhối. Nhưng việc không lên tiếng của tôi sẽ làm tôi có lỗi với
những người đi trước, với các NT, anh chị em đã nằm xuống cho đất Mẹ VN.
Nhân đây tôi cũng muốn gửi một nén hương để tưởng nhớ đến công ơn dìu dắt, và nâng đỡ tôi trong thời gian đang công tác như cố Đại tá Lê Quang Tung, cố Đại Tá Lam Sơn (Phạm Đình Thứ, 1964), cố Đại tá Trần Văn Hổ (1964-1966).
Nhân đây tôi cũng muốn gửi một nén hương để tưởng nhớ đến công ơn dìu dắt, và nâng đỡ tôi trong thời gian đang công tác như cố Đại tá Lê Quang Tung, cố Đại Tá Lam Sơn (Phạm Đình Thứ, 1964), cố Đại tá Trần Văn Hổ (1964-1966).
Nguyễn Văn Tuyết.
Từ thuở còn học sinh tôi có người bạn
tên Trần Hiếu Hòa. Ngoài học văn hóa, tôi và bạn tôi còn say mê học võ
thuật. Chính vì điểm này, cả hai có cơ hội vào ngành Tình báo rất sớm,
mặc dù hoàn cảnh gia đình cũng như tình trạng học vấn không bắt chúng
tôi làm như vậy.
Nói đến hai chữ Tình Báo thì đa số hiểu
là làm một việc gì đó có tính cách bí mật. Nhưng nếu đi vào chuyên môn,
thì đây là một lãnh vực đa dạng, với mỗi cá nhân nhận những nhiệm vụ
riêng biệt, từ thấp đến cao, qua mỗi lần thi hành xong một nhiệm vụ rồi
trở về hậu cứ. Lần sau khi xuất phát, người đi công tác phải học lại cho
phù hợp với thực tế, vì trang thiết bị và vũ khí cho mình và của địch
luôn thay đổi theo thời gian. Tôi và Hoà đã tham gia các khóa học đặc
biệt về Tình báo. Theo thời gian chúng tôi dần dần trưởng thành qua
những lần công tác.
Sau một thời gian công tác, tôi trở về
Phòng Hoạt Động của Tổng Thống Phủ (P42) còn Hòa về làm Trưởng Phòng 5
của ông Đỗ Cao Thanh.
Sau ngày 1-11-1963, tôi đã bị gọi lên
thẩm vấn điều tra. May mắn thay, tôi đã được Đại tá Ngô Du gửi đi học
khoá Trung Cấp Tình Báo vì biết tôi không có những liên hệ nào đặc biệt
với chế độ cũ. Năm 1964, tôi được thuyên chuyển về Phòng 6 Bộ Tổng Tham
Mưu.
Đến tháng 6-1964, tôi chính thức làm
việc tại Phòng 6 của Sở Kỹ Thuật (đổi tên thành Sở Khai Thác Địa Hình)
và được lĩnh lương sai biệt. Tôi được lệnh đưa các toán Biệt kích tới
Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng. Đầu tháng 11 năm 1964, việc huấn luyện
của các toán đã qua giai đoạn 2 và sẽ thực tập Nhảy dù tại Đà Lạt, sau
đó theo học khóa HT 98 tại trường Truyền Tin Vũng Tàu. (Chỉ huy trưởng
là Thiếu Tá Hoàng Hữu Gia.) Khi đến đây, mọi thủ tục giữ bí mật được áp
dụng, các Học viên không được nói sự thật về đơn vị mình đang phục vụ để
bảo toàn an ninh. Để giống mọi người, các học viên mặc Quân phục kaki
vàng, và Quân phục tác chiến giống TQLC.
Mới vào Quân trường nên một số người
ngoài đơn vị cũng đến làm quen và hỏi thăm vì tò mò muốn tìm hiểu. Một
số khác không quan tâm. Nhưng lại có người không tin, gây sự cho là khóa
sinh mới đã ăn cấp kiểu Quân phục của họ và gây lộn. Thiếu tá Hoàng Hữu
Gia đã phải đưa đại đội ứng trực xuống để ổn định tình hình. Vì người
bị ăn cắp đồ là Thiếu úy Kim, Khóa 11 TĐ, là cháu Trung tướng Nguyễn
Ngọc Lễ, nên Đại tá Lê Nguyên Khang, Tư Lệnh TQLC, phải ra tận nơi để
giải quyết. Sau đó Thiếu tá Gia đã bị đổi đi và Thiếu tá Vũ Duy Tạo về
thay thế làm Chỉ huy trưởng trường Truyền Tin.
Vào khoảng giữa năm 1965, Trần Hiếu Hòa
giới thiệu với tôi Trung úy Bình (tức Nguyễn Hữu Luyện) một Sĩ quan mới
về nhậm chức tại đơn vị. Qua bạn Hòa, tôi được biết anh Luyện là người
thẳng thắn, có thâm niên Quân đội, và có nhiều kinh nghiệm tác chiến.
Anh Hòa và anh Luyện muốn lập các toán xâm nhập miền Bắc. Anh Luyện sẽ
là Trưởng Công Tác đầu tiên đi cùng toán. Anh Hoà sẽ lo việc tuyển dụng
nhân viên, sắp xếp, tổ chức theo ý của anh Luyện, và được sự chấp thuận
của Trung Ương.
Việc tuyển dụng nhân viên không phải lúc
nào cũng dễ dàng. Trong khi làm việc, tôi đã phải từ chối một người tên
Nghiã vì anh này khai dối là đã đủ 18 tuổi. Hơn nữa, trong nhà đã có
mấy anh lớn phục vụ trong Quân đội, và Nghiã là con út đang đi học. Theo
luật thì Nghiã không phải bị động viên. Thời gian qua khi đủ 18 tuổi,
anh này lại làm đơn xin gia nhập một lần nữa. Về tình tôi đã xiêu lòng,
nhưng về lý buộc tôi phải hỏi cha mẹ anh có đồng ý hay không ? Một khi
tin không lành đến nhà thì gia đình họ sẽ có đủ lý do để bắt lỗi tôi. Vả
lại, tôi cũng đã bị phiền toái nhiều lần vì cha mẹ vợ con người bị tử
nạn đến ăn vạ, bắt đền. Khi được biết Nghiã đã nói dối cha mẹ là đi Cảnh
sát, tôi đã từ chối thẳng.
Sau một thời gian, tôi lại nhận được đơn
tình nguyện của Nghiã lần thứ ba. Lần này, Nghiã đã thuyết phục được bố
mẹ của mình. Tôi đã nhận được tờ giấy "ưng thuận cho con đi lính" với
chữ ký của người mẹ. Khi tôi dến để xác minh lần chót, cha mẹ Nghiã có
một yêu cầu nhờ tôi giúp đỡ. Đó là tôi ở đâu thì Nghiã ở đó. Trong khi
tôi còn đang chần chờ thì Nghiã đã đạp chân tôi nhiều lần ở dưới gậm bàn
mong tôi chấp thuận. Tôi đã biết có nhiều người trẻ tuổi, chỉ sau một
thời gian, đã nản chí không muốn phục vụ nữa. Chính vì suy nghĩ như vậy
nên tôi tạm thời chấp thuận.
Đúng lúc này, anh Luyện đang tuyển dụng
nhân viên. Tôi đã chuyển hết hồ sơ cho anh Luyện với một điều kiện tiên
quyết là Nghiã không được xa tôi. Tôi đã sắp xếp cho Nghiã học Truyền
Tin để sau này có thể hoán chuyển dễ hơn.
Tháng 10-1965, khi việc tuyển dụng tạm
xong, tôi được chuyển đến Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng, Long Thành,
Biên Hòa cùng anh Hòa và anh Luyện. Tại đây, khoá huấn luyện được đặt
tên là Bắc Bình. (Muốn giống đội quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ.) Đại đa số
tinh thần các học viên rất cao, nhưng kinh nghiệm chưa có. Để thuận
tiện công tác trên lãnh thổ Lào, anh Luyện có nhờ tôi liên lạc với anh
Nguyễn Mạnh Hải, một Việt Kiều từ Thái Lan về nước, đang là một Hạ sĩ
quan sửa chữa vũ khí binh đoàn thuộc Trung Đoàn 12, Sư Đoàn 7. Anh Luyện
đã sắp xếp tôi, Hòa, và Hải tại ban chỉ huy của toán. Mỗi toán được
chia thành 4 toán nhỏ độc lập, với hơn chục người mỗi toán. Nguyễn Ngọc
Lân làm Trưởng Toán A1, Hà Huy Tuấn, Trưởng Toán A2, Mai Nhuệ Anh,
Trưởng Toán B1, Hoàng Đình Khả, Trưởng Toán B2.
Các khóa sinh được học chuyên môn, từ vũ
khí, nhảy dù, phá hoại, chất nổ, tình báo, tâm lý chiến, bản đồ, địa
bàn, đến truyền tin... Giữ lời hứa với gia đình Nghiã, tôi đã lo cho anh
đủ điều, như đưa tiền cho anh ta chi tiêu lặt vặt, trong khi tôi đã giữ
tiền lương tháng của Nghiã. Sau vài ba tháng khi Nghiã được đi phép,
tôi đã đưa lại để anh mang về cho gia đình. Một người khác, cũng đã nhờ
tôi giữ hộ lương của mình, giống như Nghiã.
Một thời gian sau, Trần Hiếu Hòa được cử đi tuyển dụng toán độc lập khác.
Tháng 5-1966, các toán Biệt kích thực
tập xâm nhập trên đất địch, nhảy dù tại Đà Lạt, và được đánh giá về khả
năng hoạt động độc lập. Sau khi toán được rút về trung tâm và nghỉ phép,
họ đã được chuyển lên Kontum và Khâm Đức để thực tập bằng trực thăng
bán phản lực. Cuối tháng 6-1966, tôi được lệnh về trình diện Trung tướng
Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, để nhận nhiệm vụ
mới. Tôi đã xin hoãn lại một thời hạn với lý do sắp xếp tình cảm với anh
em, sao cho tình lý được vẹn toàn. Chính vì lẽ đó, tôi trở lại TTHL
Quyết Thắng làm việc. Nơi đây, các toán đã được huấn luyện đổ bộ bằng
trực thăng và thám sát đường mòn HCM. Đến trung tuần tháng 6, các toàn
chuyển ra trại 6 Mỹ Khê, Đà Nẵng sẵn sàng thi hành nhiệm vụ.
Anh Luyện dự trù sẽ dẫn toán đi đợt 1.
Đại úy Nguyễn Văn Vinh vốn là một trưởng công tác dày dạn kinh nghiệm
chịu trách nhiệm lương bổng. Đa số thành viên trong toán 2 hăng say
nhưng thiếu kinh nghiệm nên anh Luyên đã yêu cầu tôi ở lại toán này để
quyết định việc xâm nhập cùng 3 toán trưởng còn lại. Chuẩn úy Đặng Đình
Thúy sẽ cùng đi nhưng đến vùng công tác sẽ sắp xếp để làm cố vấn bản đồ,
địa bàn cho toán B2 của anh Hoàng Đình Khả. Trong lúc chờ lên đường tại
bãi Mỹ Khê, Đà Nẵng, anh Hoàng Đình Mỹ gặp tôi xin ở lại để cùng đi với
toán 2 của tôi. Tôi đã thẳng thắn từ chối vì đây thuộc thẩm quyền của
anh Luyện, trưởng toán.
Sau khi chia tay, toán HECTOR 1 lên
đường xâm nhập vào vùng công tác vào hạ tuần tháng 6-1966. Khi nhận được
công điện của Bản Văn số I có đoạn “MẶT TRỜI MỌC”, tôi được ông Vinh
cho biết toán đã được thả an toàn. Trong lúc chờ lệnh lên đường, toán 2
vẫn tiếp tục thực tập tại bãi biển Mỹ Khê.
Ông Phan Trọng Sinh, đại diện Sở Liên
Lạc tại Quân Đoàn I, đã đến gặp chúng tôi, yêu cầu cử một toán Biệt kích
xuống Thường Đức, vì Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm không muốn xử dụng một
đơn vị Lôi Hổ cho công tác đặc biệt tại vùng này. Theo nguyên tắc, khi
một toán được cử đi công tác, bắt buộc phải có cố vấn người Mỹ, cùng các
máy truyền tin, đi theo để sẵn sàng yểm trợ. Trung tá Cố Vấn Mỹ Simon
đã không đồng ý nên kế hoạch này không thể thực hiện. Trong khi nói
chuyện, ông Sinh đã hỏi tôi có đồng ý thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này ?
Biến động Phật Giáo Miền Trung đã ảnh
hưởng nhiều đến tình hình an ninh QK I, cũng như hạn chế phần nào hoạt
động Quân sự của ta tại đây. QĐ I muốn giải tỏa vùng Thường Đức vẫn còn
bị VC chiếm đóng, nhưng Quân Báo của Sư đoàn 2 và QĐ I chưa sẵn sàng
thực hiện. Chưa kể, nếu tiến hành ngay thì các đơn vị Quân Báo cũng
không dễ gì hoàn thành nhiệm vụ, và khó tránh khỏi thương vong. Cũng cần
thêm, Thường Đức là yết hầu của Đà Nẵng. Chừng nào Thường Đức còn bị VC
chiếm đóng thì chừng đó tình hình an ninh của Đà Nẵng, nói riêng và QĐ I
còn gặp nhiều nguy hiểm. Đánh giá được nhiệm vụ quan trọng này nên tôi
đã đồng ý dùng toán của tôi nhảy vào khu vực do Tướng Lãm yêu cầu. Dĩ
nhiên, chúng tôi phải được Trung Ương chấp thuận.
Sau khi nhận lời, tôi đã vội bay vào Sài
Gòn để trình bày cùng ‘thượng cấp” về đề nghị của Tướng Lãm. Tuy nhiên,
tôi lại nhận được tin không vui. Người bạn thân của tôi, Trần Hiếu Hoà,
đang bị giam tại “cải hối thất” thuộc Bộ TTM vì vi phạm kỷ luật. Sau
khi tìm hiểu lý do vi phạm của bạn tôi tại Trung Tâm Huấn Luyện Quyết
Thắng, tôi quay lại Bộ TTM vào gặp các bạn tôi đang ở trong tù, gồm có :
Trần Hiếu Hòa -Trưởng Toán T, Phạm Bá Toán - Trưởng toán KERN B, Nguyễn
Văn Thái A - Toán KERN B Nguyễn Văn Sáng - Lôi Hổ - Sở Liên Lạc -
Nguyễn Văn Tân (Tân Bé).
Khi trình diện “thượng cấp”, ông đã yêu
cầu tôi sắp xếp công việc, rồi về nhận nhiệm vụ mới. Tôi đã xin ông cho
tôi hoãn một thời gian nữa. Tôi cũng đã trình bày trường hợp vi phạm của
bạn tôi và xin ông nhẹ tay.
Ông Vinh sau đó cho tôi biết, theo ý
“thượng cấp”, Hoà sẽ thay tôi ở Đà Nẵng chiụ trách nhiệm toán HECTOR II,
nếu không thì phải có sự đồng ý của cấp chỉ huy TTHL Quyết Thắng. Được
ông Vinh phân công, tôi sẽ gặp ông Nông A Pan (Tức Võ Văn Đang), một
thẩm quyền cũ của tôi tại Lào và Đà Nặng. Tôi đã cố thuyết phục ông,
thậm chí còn lấy cá nhân tôi để bảo đảm cho lời nói. Sau khoảng một
tiếng đồng hồ sau, tôi và ông Vinh đã gặp nhau. Ông hỏi :
- Kết quả thế nào ?
Tôi cười và nói ngay :
- Bây giờ chúng ta phải quay lại TTM.
Thú thật khi đón Hòa ra khỏi trại tù,
tôi còn gặp các anh em còn lại chưa được thả. Họ cũng có ý định nhờ tôi
giúp. Tôi biết là khả năng có hạn, nên tôi cảm thấy buồn khi không trả
lời họ.
Khi định đáp máy bay đi Đà Nẵng thì được
ông Giám Đốc hỏi chuyện về lời hứa với Thiếu tướng Lãm, Tư Lệnh Quân
Đoàn I và về việc Trung tướng Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia,
gọi tôi về trình diện. Tôi đã thuyết trình về kế hoạch nhảy vào Thường
Đức với ông. Tôi trình bày kế hoạch tuyển người, phương tiện máy bay để
thả các toán xuống sát biên giới Lào - Việt, để toán không dùng máy liên
lạc dễ bị lộ mà chỉ dùng máy định vị, thời gian xâm nhập và di chuyển
khi hoàn tất nhiệm vụ, việc không yểm cho 3 bãi đất trống ở Thường
Đức... Tôi cũng xin ông cho mấy anh em phạm lỗi được đoái công chuộc tội
bằnh cách cho họ tham gia vào chiến dịch này.
“Thượng cấp” đã đồng ý thả 4 người, vốn
đã qua huấn luyện tại trại Quyết Thắng là các anh Toán, A, Sáng, và Tân.
(Như đã đề cập ở trên.)
Tôi đã ghé Hoà Cấm, lấy thêm 2 người H
‘Mông và 2 người Vân Kiều trước đây đã sống ở Thường Đức. Cả toán Biệt
Kích, gồm 8 người, đã thực tập, thao dợt tại một sân bay cũ của TQLC Mỹ,
và thực tập đổ bộ bằng trực thăng cả tuần lễ. Sau khi thuần thục, toán
đã được thả xuống biên giới Việt - Lào vào đầu tháng 7-1966. Với vỏ bọc
là người Thượng, mang theo đặc sản của núi rừng để đổi lấy muối, họ đã
nói như người Thượng, mặc quần áo rách rưới, đeo những “gùi” của người
Thượng với phiá trên là cá khô, thịt rừng khô nhưng dưới là máy truyền
tin và súng đạn. (Cũng cần nói rõ, người Thượng ở đây đã có cuộc sống vô
cùng khó khăn và nghèo khó vì chiến tranh.)
Theo dõi máy định vị, tôi biết toán đã
rời bãi đáp, đang len lỏi từ sát biên giới đi dần vào vùng Thường Đức,
đang thu nhặt tin tức tình báo và đánh dấu vị trí địch quân. Trong khi
đó, pháo binh của TQLC Mỹ và máy bay ném bom sẵn sàng can thiệp khi cần.
Khi máy định vị bị tắt bất ngờ thì cả toán sẽ là những con chốt thí.
Sau 2 tuần, toán đã ra được Bãi Số 2 và dùng PCR 64 liên lạc. Tại hậu cứ
Đà Nẵng, trực thăng và máy bay yểm trợ đã sẵn sàng cất cánh, bốc về.
Sau khi toán vừa rời khỏi bãi đáp thì hoả lực của Không Quân và Pháo
Binh đã nhịp nhàng tác xạ vào các vị trí mà máy định vị đang liên tục
phát sóng. Các đơn vị Quân đội đang án binh chờ lệnh cùng tiến vào đánh
đuổi VC ra nơi đây, ngay lập tức. QĐ I đã giải tỏa Thường Đức ngay ngày
hôm ấy.
Toán đang nghỉ ngơi khoảng 3 ngày tại Đà
Nẵng thì được Thiếu Tướng Lãm, đến tận nơi, ân thưởng huy chương cho
những nguời có công. Từ đấy, dù ông cùng đoàn tuỳ tùng đi đâu, vào bất
cứ lúc nào, khi thấy anh em Biệt Kích, ông đều cho xe dừng lại. Ông gọi
thân mật họ là “bọn chết sống lại”, và cho ngồi chung xe quá giang. Đó
là tình cảm ông dành cho anh em Biệt Kích. Chúng tôi không bao giờ quên
được tình cảm của NT đã dành cho chúng tôi. Trong toán vừa thực hiện
xong nhiệm vụ, 4 người đã ở QĐ I được ở lại Đà Nẵng. Bốn người đã phạm
lỗi trước đó thì được tha cho về phục vụ các toán của Mỹ tại Vùng III
Chiến Thuật.
Hạ tuần tháng 7 năm 1966, Trung tá
Nguyễn Khắc Bình và Trung tá Hồ Văn Kỳ Thoại đã ra thanh tra và chuyển
giao một số cơ sở đường biển cho đơn vị khác. Nhân dịp này, các NT muốn
biết các nhận xét về hiệu quả hoạt động của các toàn và kết quả chương
trình huấn luyện tại Trung Tâm Quyết Thắng. Tôi đã thẳng thắn trả lời :
- Tinh thần các khoá sinh thì cao nhưng
kinh nghiệm di chuyển trong rừng núi khá yếu, thể chất không đủ dẻo dai,
dễ bị đối phương theo dõi.
- Tại sao ? Ông hỏi.
- Rèn luyện thể chất ở trại Quyết Thắng
kém hơn ở Nha Trang hay Đà Nẵng. Vì ở đây, chạy trên cát nên sức khoẻ
các học viên rất dẻo dai và nhanh nhẹn khi di chuyển trong rừng.
Trung tá Bình gật gù tỏ vẻ đồng ý. Một thời gian sau, ông đã chuyển một số toán ra Đà Nẵng.
Cuối tháng 7-1966, qua các công điện từ
vùng hoạt động của H1 (tức Nguyễn Hữu Luyện), tôi biết toán HECTOR 2 còn
phải chờ một thời gian nữa trước khi được cử đi công tác. Tôi đã xin
thượng cấp cho cả toán 2 về Saigon nghỉ phép và chờ lệnh xuất phát để họ
yên tâm, cũng như để thân nhân họ không đặt câu hỏi là người nhà của họ
ở đâu.
Tháng 8-1966, trên yêu cầu, sau khi nghỉ
phép, toán 2 phải ở trong khu vực cấm chờ đi công tác. Vì thế cả toán
đã đáp chuyến máy bay C123 từ Đà Nẵng về Saigon. Trong chuyến máy bay
này có Trung tá Nguyễn Khắc Bình và gia đình cùng đi. Trung tá Bình
chuyển về Saigon để nhậm chức Tham Mưu Trưởng Sở Kỹ Thuật lúc bấy giờ.
Toán 2 được đưa về “khu vực cấm” tại
TTHL Quyết Thắng. Khi được đi phép, tôi đã cùng Nghiã về thăm cha mẹ của
anh. Riêng tôi còn nhiều việc phải giải quyết, nhất là tình cảm của tôi
với người tôi yêu tên Mai Thanh.
Nàng mới tốt nghiệp đại học Sư Phạm và
vừa được bổ nhiệm đi Mộc Hóa, một địa phương sát biên giới với
Kampuchia. Trăn trở với nỗi lòng riêng, tôi đã cùng nàng đi xem phim tại
rạp Rex nhưng thực tâm tôi chẳng biết phim đang chiếu gì. Tôi đang trăn
trở nhiều điều nhưng không thể nói thành lời. Tôi chỉ muốn nói cho nàng
hiểu rõ tương lai bấp bênh của một người lính như tôi. Tôi đã quen nàng
từ khi còn học trường trung học Trưng Vương, từ nhiều năm, trước khi
nàng vào Đại học. Trong buổi gặp gỡ đó, nàng đã nói với tôi rất nhiều
chuyện : về việc nàng đang dạy học, về việc tôi đang làm, và về tương
lai của hai người... Nhưng tôi là người theo đạo Thiên Chúa không dám
nói dối nên tôi chỉ là ậm ừ cho qua. Tôi doán là nàng đã ít nhiều hiểu
lầm tình cảm của tôi dành cho nàng, nhưng tôi không biết làm sao cho
phải. Cuối cùng, tôi chỉ nói với nàng,
- Sau này, nếu anh lấy vợ, người đầu
tiên anh chọn sẽ làm em. Bây giờ đất nước đang thời khói lửa, anh còn có
nhiệm vụ phải làm nên tạm xa em. Nếu không có gì thay đổi, cuối năm anh
sẽ về cùng em đi dự lễ Giáng Sinh.
Lúc chia tay, tôi thoáng thấy thái độ
cam phận của nàng cùng nét mặt gượng vui không đủ che dấu nỗi buồn ẩn
dấu bên trong. Khi nhớ đến bài hát “Biết Trả Lời Sao ?” của Duy Khánh,
tôi mới thấy vô cùng thấm thiá. Sự mâu thuẫn giữa tình cảm tha thiết của
tôi đối với nàng và một tương lai vô định, không rõ tương lai của người
lính Biệt Kích khiến tôi gần như tuyệt vọng. Tôi đã cố dấu nàng qua bề
ngoài bình thường, khá lãnh đạm, trong khi lòng tôi đau đớn không nguôi.
Làm sao tôi có thể cho nàng biết rằng tôi đang mang một trách nhiệm lớn
lao mà sự thành bại, vốn hung nhiều lành ít, chỉ tùy thuộc một phần vào
sức chịu đựng của con người ? Nỗi trăn trở này không phải chỉ mới có
khi gặp nàng mà đã nằm sâu trong tiềm thức mà tôi đã dấu chính tôi. Tất
cả lời hứa hẹn đều vô nghiã, khi tôi không thể biết rõ tương lai đầy bất
trắc của chính mình.
Qua điện thoại với “thượng cấp”, ông
Vinh cũng không biết được ý định của tôi sẽ ra sao ? Tôi có trình diện
nhiệm sở mới hay không ? Tôi có rời toán 2 hay không ? Vì lời hưá với
cha mẹ Nghiã, tôi không đành lòng bỏ Nghiã lại một mình đi công tác mà
không có tôi. Đôi lần, tôi đã đặt vấn đề với Nghiã,
- Nếu em muốn trở lại học đường, tôi sẽ
cung cấp học phí cho em như lãnh lương hàng tháng tại trại. Hay là em
muốn đi đơn vị khác, anh sẽ lo liệu.
Mỗi lần như thế, Nghiã chỉ ậm ừ không
chịu trả lời rõ. Tôi cần quyết định về việc chọn lưạ có nên về đơn vị
mới hay ở lại đơn vị cũ, nên đã ướm lời hỏi Nghiã,
- Khi anh đi thì em có buồn không ?
- Không buồn. Nghĩa tỏ vẻ tự tin trả lời.
Tôi luôn nghĩ đến cha mẹ Nghĩa tin tưởng
gửi gấm cho tôi. Nếu Nghiã có mệnh hệ nào thì tôi làm sao cho ổn thỏa ?
Thôi cũng đành, tôi đã làm tròn lời hứa với cha mẹ Nghiã.
Sau kỳ nghỉ phép, toán 2 đã trở lại “Khu
vực cấm”, được xây cất riêng biệt với khu trại chính. Khu vực này được 4
bức tường cao ngăn cách rào dây kẽm và một cổng ra vào có Quân Cảnh
gác. Trong khu cấm có một hạ sĩ quan ở ngày đêm cùng các toán viên đang
chuẩn bị nhảy toán. Trong giai đoạn này, tôi cũng xin lệnh thượng cấp
cho Nguyễn Minh Hùng được về lại gia đình vì tình trạng gia cảnh đặc
biệt của anh, và cho Nguyễn Ngọc Việt ra làm tại thư viện của trại.
Trong lòng tôi cảm thấy đã dễ chịu vì đã giải quyết được nhiều việc cho nhân viên dưới quyền.
Giờ đây, tôi đã sẵn sàng...
Westminster, ngày 3 tháng 3 năm 2015
Nguyễn Văn Tuyết
H. 21
H. 21
Phản hồi của một BK Nhảy Bắc MT
Nguyễn Văn Tuyết ...chính là Tống Văn Thái, toán viên của Hector 2, nhảy
Bắc và bị bắt tháng 9-1966.
Xin post lại 2 ý kiến trên báo Viễn Đông của 2 vị biết rất rõ về ông
Tống Văn Thái (TVT).
Kẻ hèn này cũng biết ông TVT và có thể nói 90% câu chuyện ông Thái nói
đều thuộc về truyện Trinh thám, ảo tưởng rất thích hợp cho phim trường
Hollywood, còn 10% đúng đó là: Ông TVT là 1 dân sự được tuyển mộ để nhảy
Bắc.
Quí vị muốn biết ông TVT nói xạo như thế nào, thì hãy đi hỏi 2 chị
Phuơng Hồng Quế và Trang Thanh Lan, chương trình Tiếng Hát Hậu Phương,
đài Hồn Việt đã phỏng vấn ĐẠI ÚY LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT TÔNG VĂN THÁI????vào
thời gian tháng 1 hoặc 2/2017..
TẠI SAO TIẾNG HÁT HẬU PHƯƠNG PHẢI LẤY XUỐNG (GỠ BỎ) BÀI PHÒNG VẤN ĐÃ
POST TRÊN YOUTUBE???
ÔNG THÁI CÓ THỂ NÓI DỐI MỘT SỐ NGƯỜI, NHƯNG KHÔNG THỂ NÓI DỐI VỚI TẤT CẢ
MỌI NGƯỜI...SỰ THẬT LÀ CHÍNH NGHĨA.
Ý kiến của: Tuấn Đoàn - Ngày: 22-06-2016
Tiêu đề: Bài viết về BK Tống Văn Thái
Nội dung: Những dữ kiện trong bài viết sai sự thật, tất cả cấp bậc,
chương trình huấn luyện, công tác đều sai sự thật đề nghị tòa soạn nên
lấy bài viết xuống, vì hầu như tất cả dữ kiện đều sai, bài viết không có
ảnh hưởng tốt cho ông Thái và luôn cả tòa soạn. Tốt nhất là đem bài
viết xuống tránh bàn tán không cần thiết. Tuấn Đoàn / Nha Kỹ Thuật
Ý kiến của: Moc Tai - Ngày: 28-03-2016
Tiêu đề: Bài nói về BK Tống Van Thái trên Báo Viễn Đông nên cẩn thận
hơn.
Nội dung: Ý-Kiến : v/v ông Tống văn Thái nổ qúa mạng ! Những gì nhà Báo
Băng Huyền nói về ông Tống Văn Thái có lẽ không phải là sự thật vì không
ai làm chứng, hay có bằng chứng nào cho việc này... -Nếu qúy vị muốn
biết sự thực thì nên hỏi bất cứ anh em Biệt-Kích nào Nhảy Bắc ( Chương
Trình Oplan-34) thì sẽ rõ, đặc biệt nên hỏi Cựu Đại-úy Nguyễn Hũu Luyện,
người được mệnh danh là "Người Tù Kiệt Xuất ", là Tóan Trưởng của Ông
Tống Văn Thái, và Thiếu Úy Đặng Đình Thúy, Tóan phó của ông Tống Văn
Thái, còn ông Tống Văn Thái chỉ là Trung Sĩ Truyền Tin dưới quyền trong
Tóan mà thôi, việc ông Thái nói dối mình là sinh viên đại-học y-koa, hay
có Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương là hòan tòan không có thật ! Việc
xem sách lịch sữ nói về nền Đệ Nhất CH ,rồi sau đó tưởng tượng mình là
một nhân vật trong đó... đó là biểu hiện của bệnh tâm thần ... -Ông Thái
có thể nổ với người ngòai, nhưng không thể dối trá được anh em trong
đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt hay Nha Kỹ Thuật , nếu anh em không lên tiếng
thì sẽ mang tội đồng lõa và còn nói láo hơn cả VC, làm gỉam uy tín và
danh dự của người lính VNCH, và việc ca tụng một việc hòan tòan không có
thật thì nhằm mục đích gì. - Hầu hết anh em chĩ biết Tống Văn Thái khi
qua Mỹ, không ai biết Tống Văn Thái trước năm 1975, còn anh em Biệt-Kích
Nhảy Bắc thì qúa biết Tống Văn Thái là người có biệt tài nói láo , trăm
voi không có bát nước sáo... -Đề nghị Báo Viễn Đông nên điều tra kỹ,
việc loan báo một việc không thật trên tờ Báo Viễn Đông là việc rất tai
hại cho người Việt QG và cho QL VNCH. Lời Thật mất lòng, Cựu BK Nhảy Bắc
MT
No comments:
Post a Comment